Tu là bỏ cái giả nhận ra cái thật

Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo dưới cội bồ đề, thởi gian đầu Ngài chần chờ không muốn truyền bá giáo pháp. Đến khi chư Thiên xuống đảnh lễ, cầu xin Ngài nên vì chúng sanh mà lập bày phương tiện giáo hóa. Lúc trước đọc sử tới đoạn này tôi hơi ngạc nhiên. Vì Đức Phật phát thệ nguyện lớn, thị hiện nơi đời để độ chúng sanh, sao bây giờ thành Phật rồi, Ngài không chịu đi truyền bá Chánh pháp, đợi năn nỉ mới chịu thuyết pháp. Về sau nghiên cứu kỹ tôi mới thấy rõ, quả là chỗ Đức Phật thấy, Đức Phật không thể nói cho người thế gian hiểu. Tại sao? Bởi vì chỗ đó ngược hẳn với cái thấy của người phàm tục, nên làm sao giảng cho họ hiểu được. Vì vậy Phật không muốn nói. Khi chư Thiên nài nỉ Phật dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh, từ từ sẽ có người hiểu; Phật xét thấy điều này hợp lý nên kể từ đó mới chuyển bánh xe Đại pháp.

Bài pháp đầu tiên ở vườn Lộc Uyển là bài Tứ đế, nói đủ là Tứ diệu đế. Lâu nay người học Phật xem đây là chân lý đầu tiên, Đức Phật trình bày rất đúng, rất thật. Nhưng đó là phương tiện, chớ không phải chỗ cứu kính chân thật. Nếu quý vị có đọc kinh Kim Cang, kinh Viên Giác sẽ thấy Phật dạy rằng: Pháp của Phật như con thuyền hay chiếc bè đưa người qua sông. Khi lên bờ rồi phải bỏ chiếc bè. Kinh Viên Giác nói, ví như người muốn thấy mặt trăng ở đâu? Người bạn thấy được liền lấy tay chỉ bảo “mặt trăng ở đó”. Nương theo ngón tay người kia nhìn thấy mặt trăng. Khi thấy mặt trăng rồi ngón tay là vô nghĩa. Cũng thế, pháp của Phật dạy là phương tiện, giống như ngón tay để chỉ cho chúng ta đi tới chỗ chân thật. Chỗ chân thật ví như mặt trăng, đạt được chỗ chân thật rồi thì phương tiện phải bỏ.

Chúng ta nên biết pháp Phật là phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh. Bệnh lành thì thuốc phải bỏ. Giả sử bây giờ chúng ta bị sốt rét phải uống thuốc sốt rét. Khi bệnh đã lành hoàn toàn, nếu thấy thuốc hay quá tiếp tục uống nữa thì sao? Bệnh trở lại. Cho nên bệnh lành rồi phải bỏ thuốc.

Pháp của Phật dạy là tùy bệnh cho thuốc. Chúng sanh có bệnh nào Phật cho thứ thuốc ấy. Ví dụ người tham ái nhiều, Phật dạy phương thuốc quán bất tịnh. Thấy thân nhơ nhớp quá sanh gớm nên hết tham ái. Người hiếu danh nhiều Phật dạy quán vô thương, danh vọng được rồi sẽ mất, chớ không bền, nhờ quán như thế nên bớt hiếu danh. Từng phương thuốc trị từng bệnh cho chúng sanh. Nhưng tất cả đều là phương tiện chớ không phải cứu akính. Ban đầu Phật dùng phương tiện dẫn dắt chúng ta từ từ đi tới kết quả là cứu kính. Thế nên muốn đến chỗ cứu kính, trước phải qua phương tiện, nhưng đạt được cứu kính rồi thì phải bỏ phương tiện.

Chúng ta ngày nay cứ đem kinh đọc cho Phật nghe hoài, cho đó là tu kỹ. Ngày nào cũng đem kinh ra đọc mà không hiểu được ý Phật dạy. Học kinh để hiểu, hiểu để tu chớ không phải đem đọc cho Phật nghe. Phật tử chẳng những đọc cho Phật nghe, mà còn tính bộ với Ngài nữa. Quả thật là một sai lầm đáng thương!

Phật tử có ai tập ngồi thiền rồi , mới thấy tâm mình lăng xăng lộn xộn thế nào. Cho nên ngài Huệ Khả xin pháp an tâm là điều hợp lý vô cùng. Chúng ta cũng giống hệt vậy thôi. Nhưng câu trả lời của Tổ dường như hơi ngược ngạo, dạy pháp an tâm mà lại bảo “đem tâm ra ta an cho”. Chính chỗ này ngày xưa tôi cứ ngỡ dường như Tổ đùa chơi vậy. Người ta tha thiết học hỏi, mà Tổ lại như đùa, không ngờ ngài Huệ Khả lãnh hội được. Đó là điều chúng ta thấy khó hiểu. Sau này khi nhập thất tu, đọc lại sử, tôi mới giật mình thấy cái ngu trước. Bởi vì chúng ta bị si mê nên mãi chìm trong sanh tử. Si mê cái gì? Si mê chấp thân này là thân mình thật, tâm này là tâm mình thật. Hai cái si mê này khiến chúng ta cứ tạo nghiệp, đi mãi trong sanh tử.

Hiện giờ quý vị đều thầm đồng ý thân này thật nên mới quý, mới lo đủ thứ cho nó. Ví dụ có hai người đối trước món đồ giả, một người nói thật, một người nói giả. Vậy trong hai người đó, ai ngu ai trí? Giả mà tưởng thật là ngu, còn giả biết giả là trí. Vậy tôi đặt câu hỏi lại, thân này là thật hay giả? Giả. Nếu quý vị chỉ thấy cái giả theo câu hỏi của tôi, thì khi ra khỏi giảng đường này sẽ thấy nó thật hết. Đó là chỗ mê lầm của chúng ta.

Như quý vị đang ngồi nói chuyện chơi với người thân, bất thần người ấy đứt gân máu ngã xuống tắt thở. Khi còn nói chuyện ta gọi đó là thật, đến lúc tắt thở mới biết nó giả. Nếu thật thì lúc nào cũng thật, trước sau cũng thật. Mọi người khi còn đi đứng, nói năng đều cho là thật, đến chừng ngã ra chết ai cũng bảo giả hết. Như vậy là sao? Chẳng lẽ nửa thật nửa giả. Thật ra trong giả có thật mà chúng ta không biết, nên lầm cho nó hoặc toàn giả hoặc toàn thật.

Chúng ta thử xét lại xem, hiện giờ mình sống đây, lỗ mũi đang thở. Hít vô là mượn không khí bên ngoài vào. Thở ra là trả không khí ra ngoài. Hít vô thả ra đều đều thì sống. Hít vô mà không trả ra được, trả ra mà không hít vô thì chết. Như vậy thật ở chỗ nào? Nếu thật thì khỏi mượn, đã mượn thì không thật. Một lát mượn tách nước, chút xíu lại trả ra. Đem vô trả ra. Đem vô được mà trả ra không được thì đi cấp cứu. Mượn trả đều đặn thì yên, không đều đặn không yên. Lâu hơn nữa thì mượn chén cơm. Mượn rồi cũng phải trả. Rõ ràng thân này sống bằng sự vay mượn liên tục. Đã vay mượn mà nói thật thì biết trí tuệ chúng ta tới cỡ nào? Chẳng lẽ mình ngu hết sao! Thế mà ra đường ai nói ngu đâu có chịu, trong khi thực sự mình ngu quá chừng? Nói thế để thấy chúng ta đang mê lầm. Từ mê lầm đuổi theo thân, lo cho nó, rốt cuộc rồi cũng mất. Như vậy có đáng thương không?

Đức Phật giác ngộ thấy thân này là giả, do đất, nước, gió, lửa hợp lại thành. Chất cứng là đất, chất ướt là nước, động là gió, ấm là lửa. Bốn thứ này đem vô trả ra. Còn mượn mà không trả ra thì chết. Như vậy ta có thân này, chẳng qua là cuộc sống vay mượn. Đó là điều thứ nhất.

Thứ hai, quý vị thường cho những suy nghĩ phân biệt là tâm mình. Vì thế buồn, thương, giận, ghét… đều là tâm ta. Nói “tôi buồn quá” thì buồn là tôi. Tôi vui, tôi giận, tôi ghét… tất cả là tôi hết. Cả trăm thứ, biết cái nào là tôi thật? Nên không có cái tôi thật. Như ta đang có chuyện buồn, bất thần một người bạn tri kỷ từ xa về, gặp lại nhau mình vui liền. Như vậy buồn không thật, nếu thật khi vui đến buồn đi đâu? Như vậy vui buồn không phải thật mình, chỉ là cái tạm bợ qua mất, mà ta lại chấp nó là tâm mình. Từ chấp đó, ta nghĩ việc này phải làm như thế này mới đúng, làm khác là sai. Nếu ai đề nghị khác mình, hoặc phản đối ý kiến nghĩ của mình, ta sẽ nổi nóng liền. Bởi chấp tâm suy nghĩ là mình, nên phiền não phát sinh.

Song chúng ta thử hỏi lại, những suy nghĩ của mình có đúng trăm phần trăm không? Nếu ai cũng nghĩ đúng trăm phần trăm thì bây giờ nhà toàn cả chục tầng, chớ không phải một hai tầng. Vì khi nghĩ đúng khi nghĩ trật, nên làm ăn mới thất bại. Cuộc đời này thất bại nhiều, thành công ít, chứng tỏ con người nghĩ sai nhiều, nghĩ đúng ít. Vậy mà ai cũng cố chấp cái nghĩ của mình là đúng, rồi sanh buồn giận, thương ghét đủ thứ hết.

Lại nữa, những khi ta khởi nghĩ thì thấy có nói, nhưng khi không nghĩ nó ở đâu? Tìm không ra. Không có chỗ, không có hình tướng nên biết nó không thật. Lúc ngồi thiều, ý cứ nghĩ lăng xăng hoài, ta bực mình nói tâm bữa nay xao động quá. Như thế cho cái nghĩ lăng xăng xao động ấy là tâm mình. Phật bảo đây là kẻ mê.

Chúng ta hiện giờ đang cố chấp, đang mê trong sự sai lầm, vì vậy tu rất khó. Chấp thân thật nên gặp điều trái ý nổi giận đùng đùng. Do đó khổ cả ngày. Chừng nào thấy được thân không thật, tâm không thật chúng ta sẽ sống thảnh thơi. Mỗi người đều có quyền thấy khác mình, nên ai làm trái ý ta không giận. Hiểu như vậy là giải thoát nhiều rồi.

Phật thường dạy nếu chúng ta có nghĩ điều gì nên nói: “đây là cái nghĩ của tôi”. Đừng nói cái nghĩ của tôi đúng, thêm chữ “đúng” thì có chuyện. Bởi vì hai cái đúng ngược nhau chúng ta vẫn thấy dễ chịu, có khi còn trao đổi ý kiến để rút kinh nghiệm thêm. Sống trên tinh thần ấy thì hay quá. Nên người sáng suốt muốn tìm chân lý phải thấy rõ như vậy. Tâm không thật biết nói không thật, là người trí, người giác rồi. Thế nên biết ngồi yên tĩnh tu không làm gì hết, không phải vô ích, thật ra việc ấy có lợi ích lớn lao vô cùng.

Vì vậy chúng tôi dạy tu thiền, chỉ dẫn quý vị ngồi yên tịnh nhìn lại xem niệm khởi từ đâu. Nó vừa dấy lên, ta biết vọng tưởng hư dối không theo, cứ thế công phu. Mới nghe thấy đơn giản, không có giá trị gì, nhưng thật ra chúng ta đang làm một việc lớn, đó là phá sai lầm muôn đời của mình. Thấy rõ các tư tưởng sanh diệt liên tục, tạm bợ hư dối, không theo nó thì nó phải chịu thua mình. Đó là pháp an tâm của nhà thiền. Nói pháp nhưng thật ra không có pháp gì cả. Thiền tông chủ trương không có một pháp dạy người, chỉ dùng trí mình soi lại để thấy cái thật cái hư nơi mình. Đó là điều thiết yếu.

(HT. Thích Thanh Từ giảng)

Cái thiện và hạnh phúc


Từ thời thơ ấu, chúng ta đã biết thiện ác, tốt xấu là gì. Ăn cơm vung vãi đầy bàn là xấu, dơ dáy không tắm rửa là xấu, viết chữ cẩu thả là xấu, ăn nói thô tục chửi thề là xấu… Và ngược lại là tốt. Trong các chuyện cổ tích, luôn luôn chúng ta muốn một kết thúc có hậu: kẻ ác phải thua, người tốt phải thắng, công chúa thì không thể lấy một kẻ gian thần bạc ác, mà phải lấy một hoàng tử anh hùng trung chánh, “cứu vật vật trả ơn” chứ không phải cứu vật vật trả oán, Bụt thì giúp cô Tấm chứ không giúp cô Cám… Tất cả chuyện cổ tích trên thế giới đều như thế: Cái thiện phải thắng cái ác.

Trong trí óc ngây thơ hồn nhiên, chúng ta vẫn mong đợi một sự công bình trong trận chiến giữa thiện và ác, và nếu có những giọt nước mắt tuổi thơ thì chúng ta khóc cho người thiện bị chà đạp, bị đọa đày, chứ không khóc cho người ác. Chúng ta luôn luôn có khuynh hướng yêu thích cái thiện.

Và cũng từ thưở nhỏ, chúng ta biết đem lại sự bằng lòng, niềm vui cho cha mẹ, không muốn cho cha mẹ buồn. Chúng ta biết thế nào là niềm vui, một chút hạnh phúc khi cứu một con vật bị nạn, khi cho bạn một viên kẹo, cho bạn chơi chung một món đồ chơi, biết yêu thích những đức tính tốt đẹp của cha mẹ, thầy cô, anh em, bạn bè.

Biết thiện ác, biết thích cái thiện, ghét cái ác như một bản năng trong mỗi người chúng ta. Càng lớn lên, với giáo dục, với văn hóa, sự phân biệt thiện ác, cái tốt đẹp và cái xấu xa càng rõ ràng và tạo nên sự phán đoán giá trị của con người. Người bình thường chúng ta không ai khen Hitler về những trại tập trung và lò hơi ngạt, không ai khen Pôn Pốt về việc giết hàng triệu người Campuchia. Và chúng ta đều khen ngợi trí thông minh, lòng nhân ái của Einstein, sự kiên cường vì tự do cho nhân dân mình của Nelson Mandela… Tóm lại, chúng ta không thể nào ca ngợi những tính xấu của con người, và chính những đức tính tốt đẹp của một số người đã đưa họ lên hàng những vĩ nhân.

Không nghi ngờ gì, con người được phân biệt với các loài khác vì sự biết phân biệt thiện ác, tốt xấu, biết việc gì nên làm và không nên làm. Cuộc đời làm người chính là sự loại bỏ cái xấu, cái ác và trồng thêm, làm tăng trưởng những đức tính tốt, thiện. Hai câu kết của chuyện Kiều:

Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Cuộc đời người, sự tiến hóa của con người là cái tâm phải đầy dẫy những thiện căn. Với Phật giáo, biết phân biệt thiện ác không chỉ là một đặc trưng xác nhận tính chất con người, mà hơn nữa, nó là điều kiện tất yếu để một chúng sinh có thể tái sinh làm người.

Lịch sử loài người, lịch sử của từng con người, là cuộc tranh đấu đầy gian khổ, có khi đau đớn, để cái thiện cái tốt chiến thắng cái ác cái xấu, cái chân cái đúng chiến thắng cái giả cái sai, cái đẹp chiến thắng cái xấu. Thế nên trên đỉnh cao nhân loại, những con người đã hoàn thành phần nào cuộc chiến thắng ấy luôn luôn được tôn vinh. Thế nên Đức Phật có danh hiệu là Người Chinh Phục, Người Chiến Thắng (The Conqueror, The Victorious One).

Con người là loài có ưu thế vì bằng ý thức của mình biết hướng đến Chân Thiện Mỹ và là loài có khả năng đạt đến Chân Thiện Mỹ. Lịch sử loài người, sự tiến hóa của con người không gì khác hơn là hướng tới Chân Thiện Mỹ trong mọi mặt của cuộc sống, thoát khỏi những xiềng xích của cái đối nghịch với Chân Thiện Mỹ vẫn cầm tù mình, và cuối cùng đạt đến Chân Thiện Mỹ hoàn toàn.

Không có một ngành học thuật, nghiên cứu nào, một hoạt động nào của con người mà không hướng đến ít nhất một trong ba cái đó. Không có người nào mong muốn mình và xã hội càng ngày càng xấu ác hơn, càng ngày càng giả dối sai lầm hơn, càng ngày càng xấu xí hơn. Chính vì hướng đến Chân Thiện Mỹ, thực hiện Chân Thiện Mỹ mà loài người có văn hóa và văn minh. Và càng hướng đến và thực hiện Chân Thiện Mỹ thì con người càng trở nên có văn hóa và văn minh.

Cái thiện bao trùm toàn bộ cuộc sống con người, có mặt ở mọi ngóc ngách của đời sống. Ở đây chúng ta chỉ nói về sự cho. Cho là một điều thiện và cái đối nghịch với nó, trộm cướp là cái xấu, cái ác. Thế nên việc cho được gọi là việc từ thiện.

Ngay từ nhỏ chúng ta biết đến niềm vui của sự thiện, của lòng tốt, của sự cho. Mới sinh ra được vài tháng, người nào đến với ta bằng thiện cảm, vuốt má ta, cười với ta, chúng ta cười lại dù chưa biết nói, chưa biết nghe. Ở tiểu học, nghe lời cha mẹ cầm một lon gạo đưa cho người đi xin, cứu con chim bị thương, thả một con bướm bị nhốt trong phòng cứ đâm đầu vào ngọn đèn, cho con mèo ăn… chúng ta thấy vui. (Tiếc thay khi lớn lên, trong một xã hội tranh giành, ít người còn nhớ thời thơ ấu chúng ta đã từng là một Bồ-tát nhỏ như thế nào).

Làm một việc thiện nhỏ, chúng ta thấy vui. Có ai tự ý làm một việc thiện mà thấy khổ chưa? Thế thì nếu thiện căn phát triển nơi con người chúng ta, nơi thân khẩu ý chúng ta, hẳn là có hạnh phúc. Và đương nhiên, nếu thiện căn, sự thiện, lòng tốt hoàn toàn đầy dẫy, tràn ngập thân tâm chúng ta, hẳn là hạnh phúc càng bao la sâu thẳm.

Chúng ta có thể định nghĩa thiện là làm tốt, làm lành cho mình và cho người khác vật khác và ác là làm xấu, làm hại cho mình và cho người khác vật khác. Thiện là khuynh hướng tự nhiên của con người, là bản năng của con người. (Chữ căn trong thiện căn có thể dịch thành bản năng, một chữ thông dụng của phương Tây).

Sống theo bản năng thiện ấy, chúng ta cảm nhận niềm vui, hạnh phúc. Nhưng chúng ta vẫn thấy có sự lúng túng, khó khăn: cho mà đôi khi tiếc, đôi khi đau khổ. Làm việc thiện mà đôi khi dằn vặt, khổ nhọc. Nói lời êm dịu làm vui lòng người thì khó hơn là chỉ trích, gây thương tổn cho họ.

Cái gì ngăn cản chúng ta làm điều thiện? Cái gì ngăn cản ta cảm nhận niềm vui và hạnh phúc? Đó là ‘cái ta’ và đi liền theo nó là ‘cái của ta’. Tất cả mọi cái ác suy cho cùng đều bắt nguồn từ cái ta và cái của ta. Tất cả mọi tội ác trộm cướp, tham nhũng, hại người, làm và bán đồ giả, chế biến thực phẩm có hại cho sức khỏe, gây tai nạn giao thông… tất cả và tất cả đều đến từ cái ta và những lực lượng hùng hậu của nó là tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ… Hóa ra cái ác chính là cái ta, một cái ta tự hiểu sai mình, tách lìa với mọi sự và đứng lên trên mọi sự. Đã thế, còn được trang bị bằng rất nhiều cái xấu ác.

Ở một mức độ cao hơn của nhận thức, chúng ta thấy cái ta là nguyên nhân của mọi cái ác. Suốt ngày tất cả ý đều xoay quanh cái ta, tất cả khẩu (lời nói) đều lấy cái ta làm điểm quy chiếu duy nhất, tất cả hoạt động của thân đều vì cái ta. Đời sống rốt lại chỉ là sự quanh quẩn trong một vòng vây của cái ta, ngoài ta ra không có gì hết. Cái ta làm chúng ta cô lập với thế giới, với người khác, với toàn bộ đời sống.

Thấy một cái gì, nghe một cái gì, nghĩ một điều gì… cái ta tức khắc nhảy vào, gom mọi sự về nó, cho chỉ mình nó thôi. Con người bình thường chúng ta bị nhốt vào, bị giam cầm trong sự thống trị tuyệt đối của cái ta rất nhỏ hẹp nhưng nó tự cho nó là tất cả vũ trụ. Người khác và thế giới không còn hiện hữu; nếu hiện hữu là hiện hữu qua sự nhuộm màu của cái ta.

Bị giam cầm, ở tù chung thân trong cái ta ấy, chúng ta có khổ đau, mà cô đơn là một thành phần. Đó là tình cảnh con người, qua những nhân vật vô danh của Kafka, qua Roquentin trong Buồn Nôn (La Nausée) của J.P. Sartre, qua Meursault trong Người Xa Lạ (L’Etranger) của Albert Camus, và qua những nhân vật phân mảnh của văn học hậu hiện đại.

Cái ta của chúng ta chỉ là một phần của cuộc sống chúng ta, một phương tiện của đời sống thực sự bao la của chúng ta. Chẳng có ai cho rằng một móng tay mình là tất cả vũ trụ, rồi cả đời ôm ấp hôn hít nó, thậm chí vì nó mà làm điều ác, họa chăng chỉ có trẻ nít hoặc người điên. Người trưởng thành về tinh thần, về tâm linh thì không làm thế. Họ vẫn có cái ta, sử dụng cái ta như một phần cuộc sống của họ ở đời, nhưng cái ta đó chỉ là một hạt cát trong số cát sông Hằng là tất cả chúng sanh không thể đếm hết mà thôi.

Ở một mức độ cao hơn của nhận thức con người, nếu hoàn toàn chấp vào cái ta thì cái ta đó là kẻ thủ ác. Và ngược lại, cái thiện là sự nới lỏng, sự giải phóng khỏi cái ta. Cái thiện là sự thoát khỏi xiềng xích của cái ta và đặt cái ta vào đúng vị trí của nó: một bọt biển trong đại dương chứ chẳng phải là tất cả đại dương. Và như đã nói ở trên, cái thiện là hạnh phúc thì không cái thiện nào bằng, không hạnh phúc nào bằng sự giải phóng khỏi cái ta: như Tôn Ngộ Không bay vọt lên trời cao tự do khi đã thoát khỏi sự đè nặng của năm quả núi ngũ uẩn chịu đựng từ bao kiếp đến nay.

Từ đó chúng ta có cái thiện thật sự và hạnh phúc thật sự. Dĩ nhiên, không ai không có hạnh phúc mà có thể cho người khác hạnh phúc.

Phật giáo là con đường của sự thiện, từ những sự thiện có thể tìm thấy ở bất cứ nơi đâu đến sự thiện tối hậu. Đó là con đường của sự thiện, nghĩa là con đường của hạnh phúc. Hạnh phúc vừa tự thân đồng thời hạnh phúc cho người khác. Hạnh phúc của Phật giáo không phải là một hạnh phúc tĩnh tại, không hành động. Nhưng làm sao có thể vừa hành động vừa giải thoát? Hành động là karma, là nghiệp. Dù là hành động tốt, nghiệp tốt, vẫn là sự trói buộc.

Làm thế nào để hành động, nghĩa là tạo ra nghiệp, mà vẫn giải thoát khỏi ‘cái ta đang hành động tốt’, vẫn tự do và hạnh phúc? Làm thế nào để có được sự đồng thời hạnh phúc của chính mình và của người khác? Chẳng phải cái gì chúng ta cho đi thì cái ấy mất mát nơi chúng ta sao? Có thể nào có thứ hạnh phúc mà càng cho đi thì càng có nhiều thêm? Nhưng với Phật giáo, hạnh phúc thật sự thì phải như vậy. Như thế mới nói đến chuyện lợi mình lợi người và đồng thời hạnh phúc cho cả hai bên.

Vấn đề này là một trong nhiều chủ đề của Kinh Kim Cương. Ở đây chúng ta chỉ trích ra một đoạn để học tập, để sống theo:

“Bồ-tát hãy không có chỗ trụ mà cho. Nghĩa là chẳng trụ sắc mà cho, chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà cho. Này Tu Bồ Đề! Bồ-tát nên cho như thế, chẳng trụ nơi tướng. Nếu Bồ-tát không trụ vào tướng mà cho, thì phước đức ấy (hạnh phúc ấy) là không thể suy nghĩ, không thể đo lường”.

(Nguyễn Thế Đăng)

Đừng chuốc lấy khổ đau

Đau khổ đến với mỗi chúng tôi bởi vì chúng tôi nghĩ rằng mình là trung tâm của cả thế giới, bởi vì chúng tôi cho rằng chỉ riêng có chúng tôi đang phải chịu đựng những đau đớn tột cùng.
Chúng ta đã bàn đến những khổ đau không sao tránh khỏi trong cuộc sống. Chẳng hạn, dù muốn hay không thì mỗi chúng ta đều phải chấp nhận bệnh tật, chấp nhận già yếu, chấp nhận sự chết, chấp nhận sự mất mát những người thân yêu khi họ chết đi… Đó là những khổ đau không thể tránh khỏi.

Tuy nhiên, còn có những nỗi khổ đau mà chúng ta “tự nguyện” chuốc lấy chỉ vì thiếu hiểu biết, hay nói một cách chính xác hơn là do nhận thức không đúng thật về sự việc.

Đừng chuốc lấy khổ đau….

Chúng ta mong muốn những điều không có khả năng đạt được, và đau khổ khi sự mong muốn của mình không được đáp ứng. Có thể kể ra vô số những trường hợp đau khổ thuộc loại này. Từ những chuyện nhỏ nhặt và thường xuyên xảy ra hằng ngày như mong muốn những người quanh ta phải làm điều này, điều nọ, hoặc ứng xử theo cách này, cách khác… Trong thực tế, mỗi người đều có những suy nghĩ và sở thích riêng, nên những mong muốn như thế thật hiếm khi được thỏa mãn. Ở mức độ lớn hơn, chúng ta theo đuổi những điều vượt quá khả năng thực tiễn để rồi phải đau khổ khi không đạt được…

Rất nhiều nỗi khổ của chúng ta xuất phát từ sự mong cầu đi ngược lại tự nhiên. Chúng ta mong muốn điều gì đó và bất kể là những mong muốn ấy có hợp lý hay không. Hay nói đúng hơn, chúng ta không chịu nhìn sâu vào bản chất của sự vật để có thể thấy được sự vô lý của chính mình.

Một cô gái đau khổ vì yêu thương một chàng trai nhưng không được đáp lại. Chàng trai kia không có lỗi gì cả. Chàng hoàn toàn có quyền lựa chọn người mình yêu thương. Nhưng cô gái đang yêu không có đủ sáng suốt để nhận ra điều đó. Cô đau khổ vì sự sai lầm trong nhận thức của chính mình. Nỗi đau khổ của cô chỉ có thể chấm dứt khi nào cô đối diện được với nó và nhận ra nguyên nhân thật sự, như bao nhiêu người khác đều có thể nhận ra.

Chúng ta cũng chuốc lấy đau khổ trong ý nghĩa làm tăng thêm những nỗi khổ vốn có. Khi chúng ta hờn giận, căm ghét hay ganh tỵ… chúng ta sống trong tâm trạng không vui vì chính những cảm xúc tiêu cực ấy. Tuy nhiên, thay vì nhận ra sự thật này để vượt qua, chúng ta lại có khuynh hướng bị thu hút vào đối tượng của sự hờn giận, căm ghét hay ganh tỵ, và điều này càng nuôi lớn thêm những cảm xúc tiêu cực vốn có. Kết quả là, thay vì nguôi đi theo thời gian, những cảm xúc này lại ngày càng lớn lên, ngày càng gây đau khổ nhiều hơn cho chúng ta.

Hãy thực tập sống an trú ngay trong giây phút hiện tại

Khi bạn đang có chuyện xích mích với một ai đó chẳng hạn, đề tài thu hút nhất trong một cuộc nói chuyện với những người khác trong lúc này có vẻ như sẽ là nói về người ấy, và tất nhiên là với nội dung không tốt đẹp… Mặc dù đây quả thật là điều không tốt, nhưng lại là điều rất thường xảy ra.

Chúng ta cũng chuốc lấy khổ đau trong ý nghĩa cường điệu hóa vấn đề không đúng như sự thật. Và vì vấn đề được đánh giá không đúng thật, nên nó có thể trở nên nghiêm trọng một cách không cần thiết, do đó cũng làm khổ chúng ta một cách không cần thiết. Đôi khi chúng ta phản ứng quá khích với những vấn đề thực ra là nhỏ nhặt, hoặc chúng ta đánh giá một sự việc qua định kiến của mình thay vì là dựa vào những gì thực sự diễn ra. Chẳng hạn, một lời nói vô tình xúc phạm đến ta, thường không chỉ được tiếp nhận đơn thuần trong ý nghĩa những gì nghe thấy, mà thường được liên kết ngay với những định kiến liên quan đến người nói để rồi suy diễn ra những điều vượt quá sự thật.

Tất cả những khuynh hướng sai lệch như trên đều là nguyên nhân chuốc lấy tâm trạng bất an, đau khổ cho chúng ta, và cách đối trị duy nhất là chính chúng ta phải nhận ra để từ bỏ chúng.

Chúng ta cũng chuốc lấy đau khổ trong ý nghĩa tự xem mình là trung tâm của mọi sự việc. Khuynh hướng này thu hút về bản thân hầu hết những gì mà ta cảm thấy không hài lòng, cho dù điều đó tạo ra cho chúng ta rất nhiều đau khổ. Khi bạn bước vào một quán ăn và phải chờ đợi quá lâu chẳng hạn, sự bực dọc có khuynh hướng kèm theo ý tưởng là người phục vụ đã cố tình phớt lờ không đến chỗ bạn (?), bởi vì bạn nhìn thấy một vài người khác đã được phục vụ… Tất nhiên đây là một ý tưởng hoàn toàn sai lệch, nhưng phần lớn trong chúng ta thường mắc vào những sai lệch tương tự như thế. Trong một cuộc nói chuyện giữa đông người cũng thế, nếu có một lời chỉ trích nào đó đưa ra không có địa chỉ cụ thể, dường như chúng ta luôn có khuynh hướng nhận lấy về mình, nhưng không phải để tiếp thu sửa chữa mà là để phản ứng một cách vội vàng, bực dọc… Khi nhớ lại những ngày bị giam ở trại tập trung Buchenwald của người Đức trong Thế chiến thứ hai, Jacques Lusseyran, lãnh tụ của một nhóm kháng chiến, đã nói một câu đầy ý nghĩa: “Đau khổ đến với mỗi chúng tôi bởi vì chúng tôi nghĩ rằng mình là trung tâm của cả thế giới, bởi vì chúng tôi cho rằng chỉ riêng có chúng tôi đang phải chịu đựng những đau đớn tột cùng. Người ta đau khổ là bởi vì luôn tự nhốt mình trong thân xác chật hẹp, trong bộ não nhỏ bé của chính mình.”

Nguồn: http://www.rongmotamhon.net

NÓNG GIẬN CÓ BA HẠNG NGƯỜI

Hạng người thứ nhất như chữ viết trên đá, hạng người thứ hai như chữ viết trên đất, hạng người thứ ba như chữ viết trên nước.

Sống ở đời, con người luôn vui vẻ, thích thú khi gặp những việc vừa lòng, như ý, và sẽ phản ứng giận dữ khi gặp những điều trái ý nghịch lòng. Tuy nhiên, tùy theo sự huân tập thói quen tốt xấu của mỗi người mà sự biểu lộ cơn giận qua nhiều cấp độ khác nhau.

. Hạng người thứ nhất như chữ viết trên đá, rất dễ nóng giận, lại hay hận thù và nhớ rất dai. Trong lòng người này lúc nào cũng bực tức, khó chịu vì sự chấp trước, bảo thủ nặng nề. Hạng người này rất nguy hiểm vì chỉ cần trái ý, nghịch lòng một chút là đùng đùng nổi giận, thù hằn dai dẳng và sôi sục ý muốn trả thù bất chấp hậu quả. Điều này rất dễ làm tổn hại nhiều người. Vì họ dễ giận, lại giận rất lâu sinh tâm thù hằn, ghét bỏ nên hay nói lời hằn học nặng nề. Họ hay vu khống, hủy nhục người khác và sẵn sàng tìm cách triệt tiêu đối phương bằng bất cứ giá nào.

Nếu họ có quyền cao chức trọng, thì kẻ dưới không khi nào được yên thân nếu lỡ làm điều sai quấy với họ. Khi ta không đủ sức nhiếp phục hạng người này thì tốt nhất nên tránh xa, càng xa càng tốt. Càng gần gũi họ ta càng dễ mang họa vào thân. Cũng như chữ viết đã khắc sâu vào đá, rất khó phai mờ dù bão táp, phong ba mà nét chữ vẫn lồ lộ. Người hay nóng giận, lại thù dai sẽ ghim mãi trong lòng rồi tìm cách trả thù hay triệt tiêu, hủy diệt. Nếu chẳng may họ nắm quyền lực trong tay thì chỉ gây khổ đau cho thiên hạ. Do tham vọng lớn, lại chấp trước, bảo thủ trong lòng nên họ ôm mộng bành trướng bá quyền thiên hạ. Cơn giận của họ gần như không biểu lộ bên ngoài, nên bị đè nén, ghìm gút bên trong thành ra dai dẳng. Ai lỡ đụng vào hạng người này thì khó bề yên thân vì tâm niệm ích kỷ, thù dai khó quên.

. Hạng người thứ hai như chữ viết trên đất ắt thành chữ. Dù sao thì họ cũng đỡ hơn hạng người thứ nhất bởi chữ trên đất thì có thể bôi được. Khi ta nghe ai nói lời trái tai, hay làm tổn thương mà ghim gúc, sôi sục trong lòng thì rất nguy hiểm. Nếu luôn bám víu, dính mắc vào đó sẽ có đấu tranh, nặng thì xô xát, nhẹ thì dùng lời hằn học khó nghe. Hạng người này nếu biết buông xả, lòng không cố chấp thì tâm mát mẻ, dễ dàng cảm thông, bỏ qua mọi việc.

Đã làm người có ai chưa từng một lần nóng giận? Nếu như mau giận mà lại chóng quên, tuy nóng nãy nhưng chỉ vì trực tính thì chuyện qua rồi sẽ không ôm phiền muộn trong lòng. Khi ta lỡ lời làm cho ai buồn thì nên biết hạ mình xin lỗi và cố gắng khắc phục. Cũng giống như chữ viết trên cát, trên đất, chỉ một cơn mưa thoáng qua là bao nhiêu hờn giận đều tan hòa vào hư không, nên thân tâm sẽ nhẹ nhàng, mát mẻ. Tuy nóng giận nhanh mà lại mau nguội lạnh. Hạng người này thật thà, ngay thẳng nên không để bụng. Điều gì không hài lòng, vừa ý thì nói ra liền. Chúng sinh ai cũng thích ngọt ngào, êm diệu nên lòng thì tốt nhưng lại dễ làm người khác tự ái, tổn thương, sinh ra thù hằn, oán ghét.

. Hạng người thứ ba như chữ viết trên nước, dù viết bao nhiêu cũng không thành chữ, nhờ vậy họ sống an vui, hạnh phúc. Nếu lời thế nhân nói đúng thì mình tiếp thu, sửa sai. Lỡ nói không đúng thì mình lắng nghe đặng cảm thông nỗi khổ niềm đau của người khác. Sự không tranh giành, không bực tức, không giận dữ là trường hợp hiếm có ở trên đời; chỉ có các bậc đại Bồ tát đã thành tựu tuệ giác vô ngã mới sống an nhiên, không phiền giận một ai. Bậc Thánh trí luôn như chữ viết trên nước, tuy có mà cũng như không, bởi các ngài đã sống với tính nghe viên thông, nên có tiếng nghe có tiếng, không tiếng nghe không tiếng. Người con Phật trong quá trình tu tâm dưỡng tánh cần phải có sức nhẫn chịu, dùng trí tuệ từ bi để chuyển hóa những thói quen sân hận.

Sự giận dữ thường được biểu hiện qua nhiều góc độ khác nhau. Trước tiên là qua giọng nói với lời lẽ thô tục như quát tháo, nạt nộ, hăm dọa hoặc đâm thọc hay dùng lời đường mật nhằm hạ gục đối thủ bằng nhiều cách khác nhau. Khi cơn giận dữ được biểu hiện qua cử chỉ thì da mặt tái mét, mắt đỏ ngầu, đập phá các thứ để thỏa mãn cơn phẫn nộ. Người giận dữ chẳng khác gì người điên, vì mất bình tĩnh nên không làm chủ bản thân, phát ra lời nói, hành vi, cử chỉ hằn học làm đau lòng người khác.

Nhất là các ông vua thời phong kiến. Vì cho rằng ta là thiên tử, tức là con trời, thay trời hành đạo, nên đặt ra những luật pháp khắc nghiệt nhằm bảo vệ bản ngã và dòng tộc của mình.

Có một ông vua khi mới lên ngai dân tình đã không phục, quan quân nỗi loạn, giặc giã khắp nơi nên tình thế bất an. Vua là người có mưu trí, biết được lòng dân còn quá mê muội, hay tin tưởng trời đất quỷ thần, nên một hôm cho họp bá quan, văn võ để nói rằng đã nằm mộng thấy thiên tử chính thức truyền trao công việc cai trị cùng một cẩm nang trị bình thiên hạ. Để thuận theo ý trời mà giúp dân an cư lạc nghiệp, bá quan phải tìm cho ra thiên chúc thư để công báo toàn dân. Nếu ai trái lệnh sẽ phải bị hành quyết. Bá quan văn võ đều tin theo và cùng nhau tìm kiếm. Họ tìm được quyển sách vàng tuy rất cũ kỹ nhưng mở sách ra hương thơm ngào ngạt nên ai cũng phải tin. Buỗi lễ diễn ra long trọng trước đền vua, từ quan quân cho đến thứ dân đều cùng có mặt để nghe đọc “thiên chúc thư.”

“Vua Tống Chân Tông, mạng thiên tử được xuống trần gian làm nhiệm vụ do trời giao phó, cai trị thiên hạ 200 đời nên muôn dân y theo phụng hành”. Từ đó bá quan văn võ cùng hết thảy thiên hạ đều tin theo, không dám cãi lời. Thực tế, đời Tống bên Trung Hoa trị vì được 60 đời mà thôi. Rõ ràng đây là mưu mẹo của vua Tống Nhân Tông khéo léo bày biện chứ không do ông trời ông đất nào cả. Chúng ta vì nhẹ dạ, cả tin nên không biết phân biệt đúng sai, bị một số quyền chức lợi dụng, áp đặt nhằm dễ bề sai khiến, điều hành.

Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của văn minh khoa học, con người khám phá được bầu trời, vũ trụ bao la do nhân duyên hòa hợp mà thành. Tất cả đều theo nguyên lý duyên khởi: “ Cái này có cái kia có, cái này không cái kia không, cái này sinh cái kia sinh, cái này diệt cái kia diệt, không có gì do một nhân mà thành”. Do đó, chế độ phong kiến quân chủ dần bị thay đổi hẳn, thay vào đó là chế độ dân chủ ai có khả năng phục vụ, đóng góp cao cho xã hội thì được quyền nắm cán cân công lý, nhưng tối đa cũng chỉ hai nhiệm kỳ. Điều này nhằm tránh tình trạng làm lâu hóa lão làng, lại trở về thời phong kiến, quân chủ như xưa. Hạng người thứ nhất do chấp trước, nặng nề bám víu, nên sân hận, ác độc, dã man. Họ lợi dụng lòng tin nhẹ dạ khi con người chưa đủ sáng suốt nhận định đúng sai.

Nóng giận là một trạng thái xúc cảm rất phổ biến của con người. Nó là một loại cảm xúc tiêu cực, không lành mạnh và là nguyên nhân gây ra nhiều hệ lụy khổ đau. Sự tức giận có thể biểu hiện dưới những cường độ khác nhau, nói lời mỉa mai, cay cú, hằn học, lớn tiếng chửi mắng, quát tháo nạt nộ rồi tức tối đánh đập, có khi dẫn đến cả tội ác giết người.

Không giận là trường hợp hiếm có ở đời. Khi ai đạt đến vô ngã vị tha thì mới không còn phiền giận. Các bậc thánh trí luôn bình tĩnh an nhiên trước mọi nghịch cảnh nhờ thành tựu trí tuệ, từ bi. Như chữ viết trên nước, tuy có mà cũng như không, chẳng một việc gì có thể lay động tâm tư các Ngài. Người con Phật trong quá trình tu học để chuyển hóa phiền não tham sân si, trước nhất phải biết buông xả các tạp niệm xấu ác, dấn thân gieo trồng phước đức để từng bước chuyển hóa sự nóng giận của mình.

Thích Đạt Ma Phổ
(Cơ quan ngôn luận của Ban Hướng Dẫn Phật Tử Trung Ương)

Hai Bao Tải Khiến Cả Trại Giam Bật Khóc !!!

Lưu Cương phạm tội cướp giật, bị ngồi tù đã một năm. Từ ngày bị vào tù, Lưu Cương chưa có ai đến thăm.

Nhìn những phạm nhân khác thỉnh thoảng lại có người tới thăm nom, còn được người nhà mang đến bao nhiêu đồ ăn ngon, Lưu Cương nhìn thấy mà thèm, liền viết thư cho mẹ để mẹ đến thăm, nhưng không phải vì thèm những đồ ăn ấy mà vì Lưu Cương rất nhớ bố mẹ.

Sau khi gửi biết bao nhiêu cánh thư nhưng không có bất cứ hồi âm nào, Lưu Cương hiểu, bố mẹ đã bỏ rơi mình. Đau khổ và tuyệt vọng, Lưu Cương lại viết thêm một bức thư nữa, nói là “ nếu bố mẹ không đến thăm con, bố mẹ sẽ mãi mãi mất thằng con này.”. Đây hoàn toàn không chỉ là lời nói suông, những phạm nhân bị vào tù do tái phạm đã không ít lần lôi kéo anh vượt ngục. Nhưng Lưu Cương vẫn chưa hạ được quyết tâm, nay bố mẹ không còn thương xót, đoái hoài đến mình, thì còn gì để lo lắng, vấn vương nữa?

Hôm ấy trời lạnh đến buốt da buốt thịt. Lưu Cương đang bàn bạc với mấy “đại ca đầu trọc” về chuyện vượt ngục thì có người gọi giật lại: “Lưu Cương, có người đến thăm!” Là ai được nhỉ? Bước vào phòng thăm tù nhân, Lưu Cương đứng sựng lại, là mẹ! Một năm không gặp, trông mẹ thay đổi nhiều đến mức con trai mẹ không nhận ra. Mẹ mới hơn 50 tuổi mà tóc đã bạc trắng đầu, lưng mẹ còng như con tép nhỏ, người mẹ gầy gò quá, bộ quần áo mẹ mặc đã sờn rách. Mẹ đi chân trần hằn cáu bẩn và loang lổ vết máu. Bên cạnh mẹ là hai chiếc bao tải cũ.

Hai mẹ con cứ thế đứng nhìn nhau. Chưa kịp đợi Lưu Cương mở lời, nước mắt mẹ đã trực trào từ đôi mắt mờ đục. Mẹ vừa giơ tay lên quệt nước mắt, vừa nói: “Tiểu Cương à, mẹ nhận được thư con, con đừng trách bố mẹ nhẫn tâm. Thực sự là không có thời gian đi được con ạ. Bố con…lại ngã bệnh, mẹ phải chăm sóc bố con, đường lại xa xôi….” Đúng lúc ấy, có anh quản giáo bưng đến cho mẹ Lưu Cương một bát mỳ trứng còn nóng hổi, nhiệt tình nói: “Bác ăn đi cho nóng rồi lại nói chuyện tiếp ạ.” Mẹ Lưu Cương vội đứng dậy, xoa xoa tay lên người, nói: “Thế này sao được”. Quản giáo đặt bát canh vào tay mẹ Lưu Cương, cười, nói: “Mẹ cháu cũng tầm tuổi bác, mẹ ăn một bát mỳ trứng của con trai không được sao?” Mẹ Lưu Cương không nói gì nữa, cúi đầu ăn “sụp soạp”. Bà ăn một cách ngon lành như mấy ngày chưa được miếng cơm nào vào bụng.

Đợi mẹ ăn xong, Lưu Cương nhìn xuống đôi chân sưng đỏ, nứt bao vết máu của mẹ, xót xa hỏi: “Mẹ, chân mẹ sao thế? Giầy của mẹ đâu rồi ạ?” Chưa kịp đợi mẹ trả lời, quản giáo liền tiếp lời: “Vì bác đi bộ nên mới thế, giầy của bác đã bị rách từ trước rồi.”

Đi bộ sao? Từ nhà đến đây phải mất ba bốn trăm dặm, hơn nữa đoạn đường núi rất dài! Lưu Cương từ từ cúi người xuống, khẽ xoa lên đôi chân của mẹ: “Mẹ ơi, sao mẹ không bắt xe tới? Sao mẹ không mua giầy mới?”

Mẹ vội thu chân vào, nói: “Sao phải bắt xe chứ, đi bộ cũng tốt mà”, mẹ thở dài, “Năm nay lợn bị dịch, mấy con lợn ở nhà đều chết hết, vụ mùa năm nay thu hoặch cũng kém, còn bố con…..đi khám bệnh…..cũng tốn bao nhiêu tiền…….Bố con mà khỏe thì bố mẹ đã đến thăm con lâu rồi, đừng trách bố mẹ con nhé.”

Anh quản giáo lau nước mắt, lặng lẽ rời đi. Lưu Cương cúi đầu hỏi: “Thế bố con đỡ hơn chưa mẹ?”

Lưu Cương đợi mãi không thấy mẹ trả lời, vừa ngẩng đầu lên đã thấy mẹ đang lau nước mắt, mẹ nói: “Cát bụi hết cả vào mắt i, con hỏi bố con à? Bố con sắp khỏi rồi…..Bố con bảo với mẹ là nói với con là đừng lo gì cho ông ấy, cố gắng mà cải tạo con ạ.”

Thời gian thăm phạm nhân đã hết. Quản giáo đi đến, trong tay cầm một ít tiền, nói: “Bác à, đây là chút tấm lòng của quản giáo chúng con, bác không thể đi chân trần về được bác à, nếu không, Lưu Cương sẽ đau lòng lắm ạ!”

Mẹ Tiểu Cương xua tay, nói: “Sao thế được, con bác vẫn còn ở đây, các cháu cũng đủ vất vả lắm rồi, bác còn cầm tiền của các cháu thì tổn thọ cho bác lắm!”

Anh quản giáo run run giọng nói: “Phận làm con đã không những không cho bố mẹ được hưởng phúc, lại bắt bố mẹ già cả phải lo lắng suy nghĩ, để bác đi chân đất mấy trăm dặm đến đây, nếu lại để bác đi chân trần về, thì thử hỏi người con này có còn là người nữa không bác?”

Lưu Cương không thể nói lại được gì, hét như xé giọng: “Mẹ!” Sau đó không nói thêm gì nữa, bên ngoài cửa sổ là tiếng khóc thút thít, anh quản giáo phải lùa đám phạm nhân đang lao động cải tạo ra chỗ khác.

Lúc này, có một người giám ngục bước vào phòng, cố tình lảng sang chủ đề khác: “Thôi đừng khóc nữa, mẹ đến thăm con trai là chuyện vui, đáng ra phải cười mới đúng, để tôi xem bác mang đồ gì ngon đến nào.” Vừa nói, người giám ngục vừa cầm ngược bao tải xuống. Mẹ Lưu Cương không kịp chặn lại. Mọi thứ ở trong bao rơi ra ngoài. Ngay lúc ấy, tất cả mọi người có mặt đều lặng người đi.

Bao tải thứ nhất bị rơi ra, toàn là bánh bao, bánh nướng bị nứt toác thành bốn, năm mảnh, cứng như đá, không cái nào giống cái nào. Không cần nói cũng biết đây là đồ mẹ Lưu Cương đi ăn xin trên đường. Mẹ Lưu Cương lúng túng, hai tay túm lấy góc áo, nói: “Con ạ, đừng trách mẹ đã làm như vậy, quả thật là ở nhà không còn thứ gì có thể mang đi được nữa….”

Lưu Cương hình như không nghe thấy gì, chỉ chăm chăm nhìn vào chiếc bao tải thứ hai, đó là một hộp tro cốt! Lưu Cương đứng ngẩn người, hỏi: “Mẹ, đây là cái gì thế mẹ?” Mẹ Lưu Cương thất thần, hốt hoảng, giơ tay ra ôm chặt lấy chiếc hộp: “Không….không có gì đâu con…..” Lưu Cương giành lấy như phát điên, toàn thân run lên bần bật: “Mẹ, đây là cái gì?!”

Mẹ Lưu Cương ngồi phệt xuống như người mất hết sức lực, mái tóc bạc khẽ lay động. Một lúc sau, bà mới gắng gượng, nói: “Đấy là…bố con! Vì gom góp tiền đến thăm con, bố con đi làm quần quật không kể ngày đêm, bố con bị ngã gục vì suy nhược. Trước khi chết, ông ấy nói khi còn sống không đến thăm con được, ông ấy rất buồn, sau khi chết nhất định phải đưa ông ấy đến thăm con, ông ấy muốn nhìn con lần cuối…”

Lưu Cương gào lên một tiếng như xé lòng xé ruột: “Bố, con sẽ thay đổi…” Nói rồi, anh quỳ sụp xuống, va mạnh đầu xuống đất. Bên ngoài phòng thăm phạm nhân, phạm nhân lần lượt quỳ rạp xuống đất, tiếng khóc thảm thiết vang đến tận đến trời xanh……
( Sưu tầm )
Sau câu chuyện này mong mọi người hiểu được nỗi lòng của người mẹ luôn hướng về người con. Đừng có ngu si để rồi đánh mất cha mẹ mình. Chính Lưu Cương đã giết chết cha mình mà anh ấy không hề biết. Hãy mở rộn lòng từ bi thương yêu chúng sinh !!!
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Hiểu đúng và thực hành đúng việc thờ Phật


“Ai tin ta mà không hiểu ta là hủy báng ta” (Kinh A-hàm). Lúc đức Phật còn tại thế cũng như sau khi ngài tịch diệt, việc thờ Phật, tôn kính Phật được thể hiện qua việc nghiêm trì giới luật, việc nổ lực thực hành những di huấn của ngài. Ðây là điều then chốt trong việc thờ Phật.

Thờ hình tượng Phật: Ðể thể hiện lòng tôn kính với vị đạo sư, Phật tử có thể vẽ họa hình tượng đức Phật để tôn thờ tùy ý. Trong truyện ký có thuật một câu chuyện, thời đức Phật còn tại thế, một hôm ngài dùng thần thông lên cõi trời thuyết pháp cho thân mẫu và chư thiên liên tiếp trong ba tháng. Vua Vu Ðiền, một trong những vị vua thâm tín Phật pháp và thích được hầu cận đức Phật, thấy Phật đi lâu quá không về đem lòng nhớ thương bèn mướn một họa sĩ danh tiếng rồi diễn tả lại tất cả hình vóc, tướng mạo của đức Phật để vị họa sĩ vẽ lại chân dung ngài. Chân dung của đức Phật được vẽ rất sống động. Có những lúc vua Vu Ðiền đối diện trước chân dung Phật, ông có cảm giác như Phật đang hiện hữu thuyết pháp như mọi ngày.

Sau ba tháng đức Phật trở về, vua Vu Ðiền mang chân dung của đức Phật đến và thuật lại câu chuyện, đức Phật mỉm cười và làm thinh. Làm thinh là một trong những cách mà đức Phật thường dùng để chấp nhận việc làm của đệ tử. Việc tôn kính hình tượng của đức Phật bắt đầu từ đó. Hình thức tôn kính này được đại chúng hóa trong môn đồ của đức Phật kể từ sau ngài tịch diệt dẫn đến ngày nay.

Tại sao thờ Phật?
——————
Như câu chuyện trên cho thấy, thờ Phật ban đầu chỉ là biểu lộ sự nhớ thương của môn đệ đối với đức Phật trong lúc vắng ngài, dần dần dẫn đến sự tôn kính và tri ân.

Trong gia đình, con cháu chưng thờ di ảnh của ông bà, cha mẹ thường biểu lộ tình thương qua lòng hiếu thảo hơn là sự tri ân và tôn kình. Dân tộc thờ các vị anh hùng, biểu lộ sự tri ân và ngưỡng mộ hơn là thương nhớ và tôn kính. Tín đồ của một tôn giáo đối với vị giáo chủ của mình thường biểu lộ trọn vẹn sự tôn kính tuyệt đối hơn những lảnh vực trên. Là Phật tử, hiểu đức Phật và học đòi theo lời dạy của ngài, thờ Phật ít ra cũng đủ ba phương diện: tri ân, ngưỡng mộ và tôn kính.

Tri ân
——————
Phật tử tri ân đức Phật ngoài việc tô tượng, đúc chuông, cất chùa còn phải gia công học đòi lời dạy của ngài. Tập sống theo những hạnh mà ngài dạy để phát triển năng lực tinh thần.

Tri ân đức Phật không phải vì chúng ta là tín đồ, mà vì một người đã có một ân đức sâu dày với toàn thể nhân loại. Chúng ta thờ Phật là để luôn có một tấm gương sáng trọn lành trước mặt để kiểm điểm từng tư tưởng, từng lời nói, từng hành động của chúng ta để tiến dần đến chân thiện mỹ như ngài vậy. Hình ảnh đức Phật trước mặt là một ngọn đèn trí tuệ đang đốt, chúng ta sẽ nương theo ánh sáng đó để soi rọi lại lòng mình và từ đó thắp sáng lại ngọn đèn của chính ta. Hình ảnh một đức Phật trước mặt sẽ tỏa ngát hương từ bi để nhắc nhở chúng ta phát triển hạnh từ bi sẵn có để vơi bớt khổ đau cho chính ta và tha nhân. Ðừng bao giờ thờ hình ảnh đức Phật trước mặt với sự cầu cạnh Ngài ban phúc trừ họa hay để nương vào uy lực của Ngài làm những chuyện bất lương. Nếu thờ Phật với những mục đích như trên, thì không những chúng ta hủy báng đức Phật, mà còn tự tạo ra những tư tưởng không tốt cho chính chúng ta và tha nhân nữa.

Ngưỡng mộ
——————
Phật tử ngưỡng mộ đức Phật không phải dùng mọi danh từ tốt đẹp để khen tặng ngài; cũng không phải vẽ ra một đức Phật đầy phép lạ, đủ quyền thi ân bố đức. Mặc dù đức Phật có rất nhiều thần thông, nhưng chưa bao giờ ngài dùng thần thông để mê hoặc nhân gian, hoặc để khuyến dụ người khác theo ngài. Câu chuyện một thiếu phụ có một đứa con yêu quí duy nhất bị chết, đến xin đức Phật dùng thần thông cứu độ để đứa bé sống thêm theo mong cầu của người mẹ; thay vì đức Phật dùng thần thông để làm cho đứa bé sống lại, ngài đã khéo léo giảng giải định luật vô thường để người mẹ không kéo dài thêm sự khổ đau và ý thức sâu sắc về cuộc sống của con người. Vậy Phật tử ngưỡng mộ đức Phật nên chú trọng vào ba đức tánh đặc biệt: Từ bi vô ngần, Trí tuệ vô biên, và Hùng lực phi thường. Ba đặc tánh này giúp chúng ta xây dựng hạnh phúc gia đình, hoán cải hoàn cảnh xã hội. Nói khác đi Bi, Trí và Dũng là ba tính cách đặc thù có hiệu năng giúp cho những ai hướng về chân thiện mỹ. Ðức Phật là người duy nhất từ trước đến nay đã hoàn thành ba mục tiêu trên. Ngưỡng mộ đức Phật trong tinh thần đó tức là chúng ta đã tập bước những bước vững chãi trên con đường mà ngài đã đi.

Tôn kính
——————
Tôn kính đức Phật không phải chúng ta linh thiêng hóa đức Phật ra hoặc đặt đức Phật ra ngoài cuộc sống của chúng ta. Tôn kính đức Phật là đặt một niềm tin tưởng tuyệt đối rằng ngài là một bực hoàn toàn giác ngộ. Ngài là một bực thầy sáng suốt đưa đường dẫn lối và đầy đủ đức hạnh để ta học đòi hầu thăng tiến cuộc sống tâm linh của chúng ta. Trong kinh có ghi lại 10 danh hiệu khác nhau để tán thán và tôn kính một bực giác ngộ như đức Phật: Phật là đấng hoàn toàn tự tại với các pháp, Phật là đấng đáng được nhân gian và chư thiên cúng dường, Phật là đấng biết hết mọi tâm tánh của chúng sanh, Phật là bực đầy đủ cả phúc đức và trí tuệ, Phật là đấng đã điều phục mọi phiền não, Phật là một đấng toàn thiện, Phật là đấng đã giải thoát được chuổi dây triền phược trong thế gian, Phật là đấng cao tột, Phật là bậc thầy của nhân gian và chư Thiên, Phật là đấng thế gian hoàn toàn tôn kính. (Như lai, ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn). Là những người đang theo gót chân ngài, chúng ta nên tôn kính đức Phật trong chân tinh thần đó.

Thờ Phật trong ba ý hướng trên, chúng ta sẽ thấy đức Phật gần gũi và hiện thực trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Bằng không, đức Phật chỉ là bóng mờ và giáo lý của ngài chỉ còn là một học thuyết suông.

Thờ Ðức Phật nào?
——————
Ðã là Phật thì không có vị nào cao vị nào thấp. Mức độ giác ngộ và giải thoát ngang nhau; nghĩa là đức Phật nào cũng trọn lành, cũng là một tấm gương sáng cả. Do đó, chúng ta có thể thờ bất cứ một vị Phật nào mà chúng ta cảm thấy thích. Mục đích của sự thờ Phật, như vừa nói, không phải để cầu cạnh mà là để noi gương lành. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên tùy theo thời kỳ hóa độ của một vị Phật để thờ. Chúng ta đang ở vào thời kỳ hóa độ của đức Phật Thích Ca, thì hình ảnh và giáo lý gần gũi với chúng ta nhất là đức Phật Thích Ca. Vì vậy chúng ta thấy hình ảnh của đức Phật Thích Ca được thờ phổ thông trong tất cả các chùa Bắc Tông lẫn Nam Tông.

Thờ Phật ở đâu?
——————
1/ Hình thức:

Tại bất cứ một tư gia nào cũng có thể thờ Phật được cả. Trong nhà nơi nào mà chúng ta thấy trang nghiêm là nơi ấy có thể đặt một bàn thờ Phật. Việc trang nghiêm của một bàn thờ Phật cũng rất cần thiết. Việc trang nghiêm này không phải để trang nghiêm cho hình ảnh của đức Phật, mà chính là tạo một khung cảnh trang nghiêm cho chính chúng ta. Khi đối diện trước một khung cảnh trang nghiêm, tâm chúng ta đễ gom về một mối. Tâm dễ gom về một mối thì trí tuệ dễ phát sanh. Ðây là lý do duy nhất chúng ta cần có một bàn thờ Phật trang nghiêm trong nhà. Nói khác đi, hình thức là phương tiện ban đầu để đạt đến phần nội dung cần thiết.

2/ Nội dung:

Một người có một trình độ tu tập vững chãi, nghĩa là đã vượt qua mọi hình thức rườm rà, thì việc thờ tự đối với họ không còn cần thiết nữa. Họ không cần nương vào những đối tượng bên ngoài để nhắc nhở họ nữa, mà lúc nào hình ảnh đức Phật cũng hiện rõ trong tâm họ và đặc biệt là cuộc sống của họ hoàn toàn phù hợp với lời dạy của đức Phật. Những mẫu người này là họ thờ Phật ngay trong lòng họ. Trong cuộc sống hàng ngày của họ là một bàn thờ Phật trang nghiêm. Ðiều này không phải là lý luận suông mà mỗi người học hỏi và tu tập theo giáo lý của đức Phật phải tự kiểm điểm lấy. Dĩ nhiên là một điều khó.

3/ Chưng hình tượng Phật

Trên đây là việc thờ Phật qua hai phương diện hình thức và nội dung. Cũng có lắm người không thích thờ tự mà chỉ thích có một bức hình Phật đoan nghiêm với vẻ mặt đầy tự tại và hoan hỷ để chưng trong nhà. Ðiều này không có gì trái với đạo và bất kính đối với đức Phật cả. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý là việc treo chưng hình Phật không phải chỉ để làm tăng thêm phần thẩm mỹ trong phòng khách hay trong phòng đọc sách; mà việc treo hình Phật cũng phải hàm một ý nghĩa như việc thờ ở trên, nghĩa là để nhắc nhở chúng ta hướng thiện. Chẳng hạn như một bức hình Phật được treo ở phòng khách là để nhắc nhở chúng ta mỗi khi ngồi bàn luận những công việc gì nên nhắm đến việc lợi mình lợi người, hay ít nhất lợi mình nhưng đừng tổn hại đến ai. Nhắc nhở chúng ta khi có chuyện gì vui cũng không nên vui một cách thái quá; nhắc nhở chúng ta khi gặp chuyện buồn cũng không bi thảm lắm; hoặc giả khi bàn cải một vấn đề gì chưa vở lẽ đã đưa đến sự bất hòa, cũng không nên dùng những lời lẽ quá nặng nề để sát phạt lẫn nhau. Treo một bức hình ở trong phòng học hay phòng đọc sách là để nhắc nhở chúng ta một trong những hạnh đặc biệt của đức Phật là tinh tấn. Tinh tấn là một sự nổ lực liên tục cho đến khi công việc được viên mãn. Tóm lại, dù thờ Phật hay chưng hình thì hình ảnh đức Phật vẫn là tấm gương sáng để chúng ta soi rọi lại tâm tánh của chúng ta trong từng giây phút một.

Kết quả của sự thờ Phật
——————
Nếu thờ Phật với tất cả thành tâm thiện ý như vừa nêu trên, thì chúng ta sẽ gặt hái được những lợi lạc cả hiện tại lẫn vị lai. Trong hiện tại, mỗi chúng ta và cả gia quyến chúng ta, dưới hình ảnh hiền hòa từ bi nhưng chứa đầy nghị lực của đức Phật, chúng ta sẽ có một bầu không khí đầm ấm, bao dung nhờ ảnh hưởng đạo vị qua chân dung của ngài. Từ không khí gia đình này sẽ lan rộng ra đến xóm giềng; từ những cá nhân trong gia đình này sẽ ảnh hưởng đến những công dân ngoài quốc gia xã hội…. Kết quả này thu hoạch được nhiều hay ít, mức độ thăng tiến tinh thần cao hay thấp, hoàn toàn tùy thuộc vào tỷ lệ thực hành của từng cá nhân qua nhân cách của đức Phật, chứ không phải đức Phật ban bố những kết quả ấy cho chúng ta. Mọi kết quả tốt được khai quật từ kho tàng vô tận của chính chúng ta. Ðức Phật chỉ là người chỉ điểm. Phật tử nếu có phương tiện nên có một bàn thờ Phật trang nghiêm và thờ Phật với tất cả tinh thần như vừa nêu trên. Thờ Phật như vậy chính là tin Ngài và hiểu Ngài.

(Thích Minh Đạt)

VÔ NGÃ


91. Một bà cụ già mộ đạo từ một tỉnh kế cận đến Wat Ba Pong hành hương. Bà thưa với Ajahn Chah rằng bà chỉ có thể ở đây một thời gian ngắn mà thôi vì bà còn phải trở về nhà để coi chừng coi đổi mấy đứa chắt của bà. Bà cũng thưa với Ajahn Chah là vì bà đã quá già nên xin Ngài ban cho bà một thời pháp ngắn.
Ajahn Chah trả lời: Này, bà cụ hãy lắng nghe! Ở đây không có ai hết, chỉ như vậy thôi. Không có ai là chủ nhân, không có ai già, không có ai trẻ, không có ai tốt, không có ai xấu, không có ai mạnh, không có ai yếu. Chỉ vậy thôi… vậy thôi. Tất cả đều trống rỗng, chỉ các yếu tố khác nhau của thiên nhiên tác dụng hỗ tương thôi. Không có ai sinh ra mà cũng chẳng có ai chết đi. Người nào nói về cái chết là người đó nói chuyện như đứa con nít không hiểu gì hết. Trong ngôn ngữ của tâm, nghĩa là ngôn ngữ của Phật Pháp, không hề có chuyện đó.

92. Căn bản của những lời dạy của Đức Phật là hiểu rõ tự ngã chỉ là trống không. Nhưng người học hỏi giáo pháp tạo nên ý niệm tự ngã. Họ không muốn gặp đau khổ hay khó khăn. Họ muốn mọi chuyện dễ dàng, thoải mái. Họ muốn chấm dứt đau khổ, nhưng nếu họ vẫn còn tự ngã thì làm sao hết đau khổ được.

93. Một khi bạn hiểu thì mọi chuyện đều dễ dàng, đơn giản và trực tiếp. Khi sự vật vừa lòng khởi sinh, hiểu rằng chúng là trống rỗng, không phải là của ta. Khi sự vật không vừa lòng khởi sinh, hiểu rằng chúng trống rỗng, không phải là của ta. Thế là chúng biến mất ngay. Đừng đồng hóa chúng với mình, cũng đừng cho mình là chủ nhân của chúng. Nếu bạn cho rằng cây đu đủ này là của bạn thì bạn sẽ đau khổ biết bao khi có ai đốn ngã nó. Hiểu rõ được điều đó tâm bạn sẽ thăng bằng. Khi tâm tiến đến chỗ thăng bằng thì đó là chánh đạo. Chánh đạo hay những lời dạy chân chánh của Đức Phật dẫn đến giải thoát.

94. Người ta không chịu nghiên cứu, học hỏi cái vượt qua ngoài tốt xấu. Họ thường nói: “ Tôi sẽ như thế này, tôi sẽ như thế kia.” Nhưng họ chẳng hề nói: “ Tôi sẽ chẳng là gì cả bởi vì thật sự chẳng có tôi ”. Đó là cái họ cần phải học mà họ không chịu học.

95. Khi hiểu rõ vô ngã thì gánh nặng của cuộc sống sẽ được bỏ xuống, sẽ an lạc với mọi sự. Không còn dính mắc vào tự ngã. Vào hạnh phúc thì sẽ có hạnh phúc thật sự. Hãy tập xã bỏ một cách tự nhiên, không cần tranh đấu gay go, chỉ đơn thuần xã bỏ, sự vật thế nào thì cứ để nó thế đó – không nắm giữ, không dính mắc, tự do giải thoát.

96. Thân thể bao gồm bốn yếu tố cơ bản hay tứ đại: đất, nước, gió, lửa. Khi chúng kết hợp và tạo thành cơ thể, ta gọi chúng là đàn ông, đàn bà, cho chúng một cái tên để có thể dễ dàng nhận ra chúng, nhưng thực ra chẳng có ai trong đó cả – chỉ có đất, nước, gió, lửa mà thôi. Đừng bị kích động hay quá dính mắc vào thân thể. Nếu thực sự nhìn vào bên trong, bạn sẽ thấy chẳng có ai trong đó cả.

BỒ TÁT THỊ HIỆN KHUYẾN HÓA NIỆM PHẬT

Đầu tuần tháng 5 năm ngoái, con gái của thím Tuấn là A Lan, do vì đẻ non nên sức khỏe rất yếu, một hôm bị băng huyết té ngã trên giường hôn mê, thím Tuấn tưởng cô ta ngủ, không để ý. Vài giờ sau tỉnh dậy, cô nói với mẹ: “Con vừa rồi bị hôn mê, thần thức sợ sệt đi đến một nơi rậm rạp um tùm, dường như rất xa, nhưng con vẫn cứ đi mãi về phía trước, giữa đường gặp một người nữ trẻ tuổi, rất là đoan chánh trang nghiêm, vừa chặn con lại, lại thêm duỗi tay đẩy con một cái té lộn nhào, lúc bò dậy con liền mắng cô ta: “Ngươi… cái cô gái này sao mà vô cớ xô ta vậy? Cô tên là gì?”. Cô gái đó liền nói với con rằng: “Chỗ này không phải chỗ ngươi đến, mau mau về đi, ngươi về nhà sẽ biết tên ta”. Nói như thế xong, cô liền cung kính chắp tay lại, miệng niệm: “Nam mô A Di Đà Phật”. Lúc đó con liền tỉnh dậy”. Thím Tuấn nghe xong liền nói với con gái rằng: “Cô gái đó e rằng chính là Quán Thế Âm Bồ Tát biến hóa ra để cứu con đó. Có khả năng là Đức Đại Từ Đại Bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát rồi!”.

Từ đó về sau sức khỏe của A Lan hồi phục mạnh khỏe như thường. Sau việc đó, thím Tuấn đến Liên Xã thăm tôi và kể cho nghe chuyện của A Lan trải qua và còn hỏi tôi rằng: “Tại sao Quán Thế Âm Bồ Tát cũng phải chắp tay niệm A Di Đà Phật? Quán Thế Âm Bồ Tát không phải là một trong Tam Thánh của Tây phương Cực Lạc thế giới sao?”. Tôi liền nói với bà ta rằng: “Quán Thế Âm Bồ Tát chắp tay niệm Phật là dạy cho A Lan niệm, không phải ngài tự mình cần phải niệm. Đây chính là dùng tự bản thân làm khuôn phép dạy cho người (thân giáo) muốn khuyến hóa A Lan con gái của bà, không niệm Phật làm sao có thể thoát ly được Ta Bà khổ hải, khỏi vào trong vòng luân hồi?”. Từ đó con gái của thím Tuấn cũng bắt đầu niệm Phật.

Những truyện Niệm Phật cảm ứng mắt thấy tai nghe
Tác giả: LÂM KHÁN TRỊ
Người dịch: THÍCH HOẰNG CHÍ

An Tâm

Có một hôm, Đức Thế Tôn ngồi một mình trên đám cỏ, một người đi qua thấy vậy liền hỏi:
– Sa-môn Cù-đàm có sầu muộn hay sao mà ngồi một mình cô độc thế?
Đức Phật trả lời:
– Ta mất gì mà Ta sầu muộn?
Ông ta lại hỏi:
– Nếu không sầu muộn thì chắc là Ngài hoan hỷ, mà hoan hỷ thì sao lại ngồi cô độc một mình?
Ngài lại trả lời:
– Ta được gì mà Ta hoan hỷ?
Người đó ngạc nhiên hỏi lại:
– Không sầu muộn thì hoan hỷ, không hoan hỷ thì sầu muộn. Ngài không hoan hỷ, không sầu muộn là nghĩa làm sao?
Ngài trả lời rằng:
-Hoan hỷ chỉ đến với người có tâm sầu muộn, sầu muộn chỉ đến với người có tâm hoan hỷ. Ta đã dứt bỏ nguồn gốc của sầu muộn rồi, cho nên Ta không sầu muộn, cũng không hoan hỷ. Tâm ta không dao động.

Phật đã dạy: “Tự tại với tâm, tự tại với pháp”. Thường chúng ta chỉ đi tìm sự an bình trong thế giới hiện tượng, tìm nguồn vui trong vũ trụ vật chất luôn chuyển biến vô thường, nên chúng ta chỉ nắm bắt được những bào ảnh an lạc. Và chính cái lạc ấy lại là nhân của cái khổ, nhân quả quả nhân, mãi vận hành, trong quá trình sinh tử.

Qua lời dạy ngắn gọn, nhưng hàm chứa một ý nghĩa thâm sâu vô cùng, giúp ta soi rọi vào thực tế cuộc đời để thấy rằng: hoan hỷ là điều người đời mong muốn, và chỉ đạt sự mong muốn qua sự nắm bắt, chấp thủ, như mong cho được trúng số độc đắc, mong sự ước muốn tìm cầu của cải vật chất, như vậy thì cái hoan hỷ đó là những hoan hỷ đi đến với người có tâm thiếu thốn và sầu muộn, và sau hoan hỷ đó chắc chắn là những sầu muộn âu lo của mất mát. Như người vừa trúng số thì sung sướng vô cùng nhưng liền sau đó không khỏi lo sợ bà con biết sẽ đến xin, đến mượn, hoặc bị mất, hoặc bị cháu con tranh giành làm mất hòa khí gia đình. Nếu cố giấu không cho ai biết thì cũng phập phồng sợ người ta biết.

Nhiều người ác mà sung sướng, người tốt lại khổ cực, tại sao luật nhân quả là đúng nhưng lại như thế?

Đúng như vậy, Phật giáo tin tưởng định luật nhân quả là chính xác, cũng như mọi người đều tin, đã ăn thì được no vậy. Người ta hoài nghi tính chính xác của luật nhân quả là vì người ta nhìn theo góc độ một đời người cho nên thấy sự báo ứng thiện ác là không công bằng; có người sống lành lại bị khổ; không những không gặp điều may mắn mà lại còn chết khổ ! Có người ăn hối lộ, làm trái luật pháp, làm chuyện rất tầm bậy, nhưng vẫn sống tự do ngoài vòng pháp luật, được cả phúc, cả thọ !

Kỳ thực, luật nhân quả tác động thông suốt cả 3 đời. Con người, ngoài đời sống hiện tại, đã từng sống những đời sống quá khứ nhiều vô lượng, và sẽ sống những đời sống vị lai nhiều vô lượng. Một đời sống hiện tại, đem so với vô số đời sống quá khứ, và vô số đời sống vị lai, thì thật là bé nhỏ, ngắn ngủi không đáng kể. Định luật nhân quả quán xuyến cả ba đời. Việc thụ báo lần lượt sẽ diễn biến theo thứ tự. Nghiệp lực nhỏ lớn, nhẹ nặng khác nhau, quyết định thứ tự và mức độ thụ báo khác nhau. Đời này, làm thiện làm ác, vị tất phải chịu báo trong đời này. Đời này, chịu khổ được vui, vị tất đã do nghiệp nhân tạo ra trong đời này. Hơn phân nửa chuyện xảy ra trong đời này là quả báo của nghiệp nhân, tạo ra ở đời sống trước. Phần lớn việc làm trong đời này, phải chờ tới đời sau mới có quả báo. Nếu nhìn suốt cả ba đời thì sẽ không còn thắc mắc gì nữa đối với luật nhân quả !

Hơn nữa, luật nhân quả của đạo Phật không giống như túc mệnh luận hay định mệnh luận. Phật giáo tin rằng, chỉ có những nghiệp lực cực nặng mới không thể chuyển biến được, mới làđịnh nghiệp, còn thì người ta có thể dựa vào sự nỗ lực về sau của mình để cải biến nghiệp nhân quá khứ. Thí dụ, đời trước tạo ra nghiệp nhân của sự nghèo khổ. Đời này, đúng là gặp cảnh túng quẫn, thế nhưng sinh ra trong cảnh nghèo khổ không phải là quan trọng. Nếu biết cố gắng thì hoàn cảnh nghèo khổ sẽ được cải thiện. Như vậy là kết hợp nghiệp nhân hiện tạo, với nghiệp nhân tạo ra trong đời quá khứ, cho nên mới có hoàn cảnh ngày nay. Vì vậy, luật nhân quả của đạo Phật không phải là túc mệnh luận, cũng không phải là định mệnh luận, mà là “nỗ lực luận”. Nếu Phật giáo rơi vào túc mệnh luận hay định mệnh luận, thì thuyết chúng sinh thành Phật không thể nào đứng vững được. Nếu mệnh vận đã do đời sống quá khứ sắp xếp an bài cả rồi, thì việc tu thiện ở đời này sẽ là uổng công hay sao ?

Có thể thấy, luật nhân quả của đạo Phật cũng không tách rời lý nhân duyên sinh. Từ nghiệp nhân của đời quá khứ cho đến quả báo hiện tại, ở khâu trung gian còn phải thêm bao nhiêu ngoại duyên nữa, thì nghiệp quả mới thành sự thực được. Những ngoại duyên đó là sự nỗ lực hay là lười biếng. Người đương sống làm thiện hay ác cũng như một chén nước đường vốn có vị ngọt, nhưng nếu lại bỏ thêm chanh hay cà phê vào đấy thì vị ngọt của chén nước sẽ thay đổi.

Nói chung luật nhân quả của nhà Phật quán thông và liên kết cả ba đời hiện tại, quá khứ và vị lai. Đời này, tiếp thu nghiệp nhân của đời quá khứ. Hành vi đời này, sẽ là nghiệp nhân của đời sau, và cũng có thể gia nhập vào nghiệp nhân của đời trước, tạo thành nghiệp quả của đời này.

Định luật nhân quả, nghe ra thì giản đơn, thế nhưng giảng ra thì không giản đơn. Phật giáo là một tôn giáo xem ra thì tựa hồ như giản đơn, nhưng thực tế thì không giản đơn.

(HT. Thích Thánh Nghiêm)