Hiểu đúng và thực hành đúng việc thờ Phật


“Ai tin ta mà không hiểu ta là hủy báng ta” (Kinh A-hàm). Lúc đức Phật còn tại thế cũng như sau khi ngài tịch diệt, việc thờ Phật, tôn kính Phật được thể hiện qua việc nghiêm trì giới luật, việc nổ lực thực hành những di huấn của ngài. Ðây là điều then chốt trong việc thờ Phật.

Thờ hình tượng Phật: Ðể thể hiện lòng tôn kính với vị đạo sư, Phật tử có thể vẽ họa hình tượng đức Phật để tôn thờ tùy ý. Trong truyện ký có thuật một câu chuyện, thời đức Phật còn tại thế, một hôm ngài dùng thần thông lên cõi trời thuyết pháp cho thân mẫu và chư thiên liên tiếp trong ba tháng. Vua Vu Ðiền, một trong những vị vua thâm tín Phật pháp và thích được hầu cận đức Phật, thấy Phật đi lâu quá không về đem lòng nhớ thương bèn mướn một họa sĩ danh tiếng rồi diễn tả lại tất cả hình vóc, tướng mạo của đức Phật để vị họa sĩ vẽ lại chân dung ngài. Chân dung của đức Phật được vẽ rất sống động. Có những lúc vua Vu Ðiền đối diện trước chân dung Phật, ông có cảm giác như Phật đang hiện hữu thuyết pháp như mọi ngày.

Sau ba tháng đức Phật trở về, vua Vu Ðiền mang chân dung của đức Phật đến và thuật lại câu chuyện, đức Phật mỉm cười và làm thinh. Làm thinh là một trong những cách mà đức Phật thường dùng để chấp nhận việc làm của đệ tử. Việc tôn kính hình tượng của đức Phật bắt đầu từ đó. Hình thức tôn kính này được đại chúng hóa trong môn đồ của đức Phật kể từ sau ngài tịch diệt dẫn đến ngày nay.

Tại sao thờ Phật?
——————
Như câu chuyện trên cho thấy, thờ Phật ban đầu chỉ là biểu lộ sự nhớ thương của môn đệ đối với đức Phật trong lúc vắng ngài, dần dần dẫn đến sự tôn kính và tri ân.

Trong gia đình, con cháu chưng thờ di ảnh của ông bà, cha mẹ thường biểu lộ tình thương qua lòng hiếu thảo hơn là sự tri ân và tôn kình. Dân tộc thờ các vị anh hùng, biểu lộ sự tri ân và ngưỡng mộ hơn là thương nhớ và tôn kính. Tín đồ của một tôn giáo đối với vị giáo chủ của mình thường biểu lộ trọn vẹn sự tôn kính tuyệt đối hơn những lảnh vực trên. Là Phật tử, hiểu đức Phật và học đòi theo lời dạy của ngài, thờ Phật ít ra cũng đủ ba phương diện: tri ân, ngưỡng mộ và tôn kính.

Tri ân
——————
Phật tử tri ân đức Phật ngoài việc tô tượng, đúc chuông, cất chùa còn phải gia công học đòi lời dạy của ngài. Tập sống theo những hạnh mà ngài dạy để phát triển năng lực tinh thần.

Tri ân đức Phật không phải vì chúng ta là tín đồ, mà vì một người đã có một ân đức sâu dày với toàn thể nhân loại. Chúng ta thờ Phật là để luôn có một tấm gương sáng trọn lành trước mặt để kiểm điểm từng tư tưởng, từng lời nói, từng hành động của chúng ta để tiến dần đến chân thiện mỹ như ngài vậy. Hình ảnh đức Phật trước mặt là một ngọn đèn trí tuệ đang đốt, chúng ta sẽ nương theo ánh sáng đó để soi rọi lại lòng mình và từ đó thắp sáng lại ngọn đèn của chính ta. Hình ảnh một đức Phật trước mặt sẽ tỏa ngát hương từ bi để nhắc nhở chúng ta phát triển hạnh từ bi sẵn có để vơi bớt khổ đau cho chính ta và tha nhân. Ðừng bao giờ thờ hình ảnh đức Phật trước mặt với sự cầu cạnh Ngài ban phúc trừ họa hay để nương vào uy lực của Ngài làm những chuyện bất lương. Nếu thờ Phật với những mục đích như trên, thì không những chúng ta hủy báng đức Phật, mà còn tự tạo ra những tư tưởng không tốt cho chính chúng ta và tha nhân nữa.

Ngưỡng mộ
——————
Phật tử ngưỡng mộ đức Phật không phải dùng mọi danh từ tốt đẹp để khen tặng ngài; cũng không phải vẽ ra một đức Phật đầy phép lạ, đủ quyền thi ân bố đức. Mặc dù đức Phật có rất nhiều thần thông, nhưng chưa bao giờ ngài dùng thần thông để mê hoặc nhân gian, hoặc để khuyến dụ người khác theo ngài. Câu chuyện một thiếu phụ có một đứa con yêu quí duy nhất bị chết, đến xin đức Phật dùng thần thông cứu độ để đứa bé sống thêm theo mong cầu của người mẹ; thay vì đức Phật dùng thần thông để làm cho đứa bé sống lại, ngài đã khéo léo giảng giải định luật vô thường để người mẹ không kéo dài thêm sự khổ đau và ý thức sâu sắc về cuộc sống của con người. Vậy Phật tử ngưỡng mộ đức Phật nên chú trọng vào ba đức tánh đặc biệt: Từ bi vô ngần, Trí tuệ vô biên, và Hùng lực phi thường. Ba đặc tánh này giúp chúng ta xây dựng hạnh phúc gia đình, hoán cải hoàn cảnh xã hội. Nói khác đi Bi, Trí và Dũng là ba tính cách đặc thù có hiệu năng giúp cho những ai hướng về chân thiện mỹ. Ðức Phật là người duy nhất từ trước đến nay đã hoàn thành ba mục tiêu trên. Ngưỡng mộ đức Phật trong tinh thần đó tức là chúng ta đã tập bước những bước vững chãi trên con đường mà ngài đã đi.

Tôn kính
——————
Tôn kính đức Phật không phải chúng ta linh thiêng hóa đức Phật ra hoặc đặt đức Phật ra ngoài cuộc sống của chúng ta. Tôn kính đức Phật là đặt một niềm tin tưởng tuyệt đối rằng ngài là một bực hoàn toàn giác ngộ. Ngài là một bực thầy sáng suốt đưa đường dẫn lối và đầy đủ đức hạnh để ta học đòi hầu thăng tiến cuộc sống tâm linh của chúng ta. Trong kinh có ghi lại 10 danh hiệu khác nhau để tán thán và tôn kính một bực giác ngộ như đức Phật: Phật là đấng hoàn toàn tự tại với các pháp, Phật là đấng đáng được nhân gian và chư thiên cúng dường, Phật là đấng biết hết mọi tâm tánh của chúng sanh, Phật là bực đầy đủ cả phúc đức và trí tuệ, Phật là đấng đã điều phục mọi phiền não, Phật là một đấng toàn thiện, Phật là đấng đã giải thoát được chuổi dây triền phược trong thế gian, Phật là đấng cao tột, Phật là bậc thầy của nhân gian và chư Thiên, Phật là đấng thế gian hoàn toàn tôn kính. (Như lai, ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn). Là những người đang theo gót chân ngài, chúng ta nên tôn kính đức Phật trong chân tinh thần đó.

Thờ Phật trong ba ý hướng trên, chúng ta sẽ thấy đức Phật gần gũi và hiện thực trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Bằng không, đức Phật chỉ là bóng mờ và giáo lý của ngài chỉ còn là một học thuyết suông.

Thờ Ðức Phật nào?
——————
Ðã là Phật thì không có vị nào cao vị nào thấp. Mức độ giác ngộ và giải thoát ngang nhau; nghĩa là đức Phật nào cũng trọn lành, cũng là một tấm gương sáng cả. Do đó, chúng ta có thể thờ bất cứ một vị Phật nào mà chúng ta cảm thấy thích. Mục đích của sự thờ Phật, như vừa nói, không phải để cầu cạnh mà là để noi gương lành. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên tùy theo thời kỳ hóa độ của một vị Phật để thờ. Chúng ta đang ở vào thời kỳ hóa độ của đức Phật Thích Ca, thì hình ảnh và giáo lý gần gũi với chúng ta nhất là đức Phật Thích Ca. Vì vậy chúng ta thấy hình ảnh của đức Phật Thích Ca được thờ phổ thông trong tất cả các chùa Bắc Tông lẫn Nam Tông.

Thờ Phật ở đâu?
——————
1/ Hình thức:

Tại bất cứ một tư gia nào cũng có thể thờ Phật được cả. Trong nhà nơi nào mà chúng ta thấy trang nghiêm là nơi ấy có thể đặt một bàn thờ Phật. Việc trang nghiêm của một bàn thờ Phật cũng rất cần thiết. Việc trang nghiêm này không phải để trang nghiêm cho hình ảnh của đức Phật, mà chính là tạo một khung cảnh trang nghiêm cho chính chúng ta. Khi đối diện trước một khung cảnh trang nghiêm, tâm chúng ta đễ gom về một mối. Tâm dễ gom về một mối thì trí tuệ dễ phát sanh. Ðây là lý do duy nhất chúng ta cần có một bàn thờ Phật trang nghiêm trong nhà. Nói khác đi, hình thức là phương tiện ban đầu để đạt đến phần nội dung cần thiết.

2/ Nội dung:

Một người có một trình độ tu tập vững chãi, nghĩa là đã vượt qua mọi hình thức rườm rà, thì việc thờ tự đối với họ không còn cần thiết nữa. Họ không cần nương vào những đối tượng bên ngoài để nhắc nhở họ nữa, mà lúc nào hình ảnh đức Phật cũng hiện rõ trong tâm họ và đặc biệt là cuộc sống của họ hoàn toàn phù hợp với lời dạy của đức Phật. Những mẫu người này là họ thờ Phật ngay trong lòng họ. Trong cuộc sống hàng ngày của họ là một bàn thờ Phật trang nghiêm. Ðiều này không phải là lý luận suông mà mỗi người học hỏi và tu tập theo giáo lý của đức Phật phải tự kiểm điểm lấy. Dĩ nhiên là một điều khó.

3/ Chưng hình tượng Phật

Trên đây là việc thờ Phật qua hai phương diện hình thức và nội dung. Cũng có lắm người không thích thờ tự mà chỉ thích có một bức hình Phật đoan nghiêm với vẻ mặt đầy tự tại và hoan hỷ để chưng trong nhà. Ðiều này không có gì trái với đạo và bất kính đối với đức Phật cả. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý là việc treo chưng hình Phật không phải chỉ để làm tăng thêm phần thẩm mỹ trong phòng khách hay trong phòng đọc sách; mà việc treo hình Phật cũng phải hàm một ý nghĩa như việc thờ ở trên, nghĩa là để nhắc nhở chúng ta hướng thiện. Chẳng hạn như một bức hình Phật được treo ở phòng khách là để nhắc nhở chúng ta mỗi khi ngồi bàn luận những công việc gì nên nhắm đến việc lợi mình lợi người, hay ít nhất lợi mình nhưng đừng tổn hại đến ai. Nhắc nhở chúng ta khi có chuyện gì vui cũng không nên vui một cách thái quá; nhắc nhở chúng ta khi gặp chuyện buồn cũng không bi thảm lắm; hoặc giả khi bàn cải một vấn đề gì chưa vở lẽ đã đưa đến sự bất hòa, cũng không nên dùng những lời lẽ quá nặng nề để sát phạt lẫn nhau. Treo một bức hình ở trong phòng học hay phòng đọc sách là để nhắc nhở chúng ta một trong những hạnh đặc biệt của đức Phật là tinh tấn. Tinh tấn là một sự nổ lực liên tục cho đến khi công việc được viên mãn. Tóm lại, dù thờ Phật hay chưng hình thì hình ảnh đức Phật vẫn là tấm gương sáng để chúng ta soi rọi lại tâm tánh của chúng ta trong từng giây phút một.

Kết quả của sự thờ Phật
——————
Nếu thờ Phật với tất cả thành tâm thiện ý như vừa nêu trên, thì chúng ta sẽ gặt hái được những lợi lạc cả hiện tại lẫn vị lai. Trong hiện tại, mỗi chúng ta và cả gia quyến chúng ta, dưới hình ảnh hiền hòa từ bi nhưng chứa đầy nghị lực của đức Phật, chúng ta sẽ có một bầu không khí đầm ấm, bao dung nhờ ảnh hưởng đạo vị qua chân dung của ngài. Từ không khí gia đình này sẽ lan rộng ra đến xóm giềng; từ những cá nhân trong gia đình này sẽ ảnh hưởng đến những công dân ngoài quốc gia xã hội…. Kết quả này thu hoạch được nhiều hay ít, mức độ thăng tiến tinh thần cao hay thấp, hoàn toàn tùy thuộc vào tỷ lệ thực hành của từng cá nhân qua nhân cách của đức Phật, chứ không phải đức Phật ban bố những kết quả ấy cho chúng ta. Mọi kết quả tốt được khai quật từ kho tàng vô tận của chính chúng ta. Ðức Phật chỉ là người chỉ điểm. Phật tử nếu có phương tiện nên có một bàn thờ Phật trang nghiêm và thờ Phật với tất cả tinh thần như vừa nêu trên. Thờ Phật như vậy chính là tin Ngài và hiểu Ngài.

(Thích Minh Đạt)

VÔ NGÃ


91. Một bà cụ già mộ đạo từ một tỉnh kế cận đến Wat Ba Pong hành hương. Bà thưa với Ajahn Chah rằng bà chỉ có thể ở đây một thời gian ngắn mà thôi vì bà còn phải trở về nhà để coi chừng coi đổi mấy đứa chắt của bà. Bà cũng thưa với Ajahn Chah là vì bà đã quá già nên xin Ngài ban cho bà một thời pháp ngắn.
Ajahn Chah trả lời: Này, bà cụ hãy lắng nghe! Ở đây không có ai hết, chỉ như vậy thôi. Không có ai là chủ nhân, không có ai già, không có ai trẻ, không có ai tốt, không có ai xấu, không có ai mạnh, không có ai yếu. Chỉ vậy thôi… vậy thôi. Tất cả đều trống rỗng, chỉ các yếu tố khác nhau của thiên nhiên tác dụng hỗ tương thôi. Không có ai sinh ra mà cũng chẳng có ai chết đi. Người nào nói về cái chết là người đó nói chuyện như đứa con nít không hiểu gì hết. Trong ngôn ngữ của tâm, nghĩa là ngôn ngữ của Phật Pháp, không hề có chuyện đó.

92. Căn bản của những lời dạy của Đức Phật là hiểu rõ tự ngã chỉ là trống không. Nhưng người học hỏi giáo pháp tạo nên ý niệm tự ngã. Họ không muốn gặp đau khổ hay khó khăn. Họ muốn mọi chuyện dễ dàng, thoải mái. Họ muốn chấm dứt đau khổ, nhưng nếu họ vẫn còn tự ngã thì làm sao hết đau khổ được.

93. Một khi bạn hiểu thì mọi chuyện đều dễ dàng, đơn giản và trực tiếp. Khi sự vật vừa lòng khởi sinh, hiểu rằng chúng là trống rỗng, không phải là của ta. Khi sự vật không vừa lòng khởi sinh, hiểu rằng chúng trống rỗng, không phải là của ta. Thế là chúng biến mất ngay. Đừng đồng hóa chúng với mình, cũng đừng cho mình là chủ nhân của chúng. Nếu bạn cho rằng cây đu đủ này là của bạn thì bạn sẽ đau khổ biết bao khi có ai đốn ngã nó. Hiểu rõ được điều đó tâm bạn sẽ thăng bằng. Khi tâm tiến đến chỗ thăng bằng thì đó là chánh đạo. Chánh đạo hay những lời dạy chân chánh của Đức Phật dẫn đến giải thoát.

94. Người ta không chịu nghiên cứu, học hỏi cái vượt qua ngoài tốt xấu. Họ thường nói: “ Tôi sẽ như thế này, tôi sẽ như thế kia.” Nhưng họ chẳng hề nói: “ Tôi sẽ chẳng là gì cả bởi vì thật sự chẳng có tôi ”. Đó là cái họ cần phải học mà họ không chịu học.

95. Khi hiểu rõ vô ngã thì gánh nặng của cuộc sống sẽ được bỏ xuống, sẽ an lạc với mọi sự. Không còn dính mắc vào tự ngã. Vào hạnh phúc thì sẽ có hạnh phúc thật sự. Hãy tập xã bỏ một cách tự nhiên, không cần tranh đấu gay go, chỉ đơn thuần xã bỏ, sự vật thế nào thì cứ để nó thế đó – không nắm giữ, không dính mắc, tự do giải thoát.

96. Thân thể bao gồm bốn yếu tố cơ bản hay tứ đại: đất, nước, gió, lửa. Khi chúng kết hợp và tạo thành cơ thể, ta gọi chúng là đàn ông, đàn bà, cho chúng một cái tên để có thể dễ dàng nhận ra chúng, nhưng thực ra chẳng có ai trong đó cả – chỉ có đất, nước, gió, lửa mà thôi. Đừng bị kích động hay quá dính mắc vào thân thể. Nếu thực sự nhìn vào bên trong, bạn sẽ thấy chẳng có ai trong đó cả.

BỒ TÁT THỊ HIỆN KHUYẾN HÓA NIỆM PHẬT

Đầu tuần tháng 5 năm ngoái, con gái của thím Tuấn là A Lan, do vì đẻ non nên sức khỏe rất yếu, một hôm bị băng huyết té ngã trên giường hôn mê, thím Tuấn tưởng cô ta ngủ, không để ý. Vài giờ sau tỉnh dậy, cô nói với mẹ: “Con vừa rồi bị hôn mê, thần thức sợ sệt đi đến một nơi rậm rạp um tùm, dường như rất xa, nhưng con vẫn cứ đi mãi về phía trước, giữa đường gặp một người nữ trẻ tuổi, rất là đoan chánh trang nghiêm, vừa chặn con lại, lại thêm duỗi tay đẩy con một cái té lộn nhào, lúc bò dậy con liền mắng cô ta: “Ngươi… cái cô gái này sao mà vô cớ xô ta vậy? Cô tên là gì?”. Cô gái đó liền nói với con rằng: “Chỗ này không phải chỗ ngươi đến, mau mau về đi, ngươi về nhà sẽ biết tên ta”. Nói như thế xong, cô liền cung kính chắp tay lại, miệng niệm: “Nam mô A Di Đà Phật”. Lúc đó con liền tỉnh dậy”. Thím Tuấn nghe xong liền nói với con gái rằng: “Cô gái đó e rằng chính là Quán Thế Âm Bồ Tát biến hóa ra để cứu con đó. Có khả năng là Đức Đại Từ Đại Bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát rồi!”.

Từ đó về sau sức khỏe của A Lan hồi phục mạnh khỏe như thường. Sau việc đó, thím Tuấn đến Liên Xã thăm tôi và kể cho nghe chuyện của A Lan trải qua và còn hỏi tôi rằng: “Tại sao Quán Thế Âm Bồ Tát cũng phải chắp tay niệm A Di Đà Phật? Quán Thế Âm Bồ Tát không phải là một trong Tam Thánh của Tây phương Cực Lạc thế giới sao?”. Tôi liền nói với bà ta rằng: “Quán Thế Âm Bồ Tát chắp tay niệm Phật là dạy cho A Lan niệm, không phải ngài tự mình cần phải niệm. Đây chính là dùng tự bản thân làm khuôn phép dạy cho người (thân giáo) muốn khuyến hóa A Lan con gái của bà, không niệm Phật làm sao có thể thoát ly được Ta Bà khổ hải, khỏi vào trong vòng luân hồi?”. Từ đó con gái của thím Tuấn cũng bắt đầu niệm Phật.

Những truyện Niệm Phật cảm ứng mắt thấy tai nghe
Tác giả: LÂM KHÁN TRỊ
Người dịch: THÍCH HOẰNG CHÍ

An Tâm

Có một hôm, Đức Thế Tôn ngồi một mình trên đám cỏ, một người đi qua thấy vậy liền hỏi:
– Sa-môn Cù-đàm có sầu muộn hay sao mà ngồi một mình cô độc thế?
Đức Phật trả lời:
– Ta mất gì mà Ta sầu muộn?
Ông ta lại hỏi:
– Nếu không sầu muộn thì chắc là Ngài hoan hỷ, mà hoan hỷ thì sao lại ngồi cô độc một mình?
Ngài lại trả lời:
– Ta được gì mà Ta hoan hỷ?
Người đó ngạc nhiên hỏi lại:
– Không sầu muộn thì hoan hỷ, không hoan hỷ thì sầu muộn. Ngài không hoan hỷ, không sầu muộn là nghĩa làm sao?
Ngài trả lời rằng:
-Hoan hỷ chỉ đến với người có tâm sầu muộn, sầu muộn chỉ đến với người có tâm hoan hỷ. Ta đã dứt bỏ nguồn gốc của sầu muộn rồi, cho nên Ta không sầu muộn, cũng không hoan hỷ. Tâm ta không dao động.

Phật đã dạy: “Tự tại với tâm, tự tại với pháp”. Thường chúng ta chỉ đi tìm sự an bình trong thế giới hiện tượng, tìm nguồn vui trong vũ trụ vật chất luôn chuyển biến vô thường, nên chúng ta chỉ nắm bắt được những bào ảnh an lạc. Và chính cái lạc ấy lại là nhân của cái khổ, nhân quả quả nhân, mãi vận hành, trong quá trình sinh tử.

Qua lời dạy ngắn gọn, nhưng hàm chứa một ý nghĩa thâm sâu vô cùng, giúp ta soi rọi vào thực tế cuộc đời để thấy rằng: hoan hỷ là điều người đời mong muốn, và chỉ đạt sự mong muốn qua sự nắm bắt, chấp thủ, như mong cho được trúng số độc đắc, mong sự ước muốn tìm cầu của cải vật chất, như vậy thì cái hoan hỷ đó là những hoan hỷ đi đến với người có tâm thiếu thốn và sầu muộn, và sau hoan hỷ đó chắc chắn là những sầu muộn âu lo của mất mát. Như người vừa trúng số thì sung sướng vô cùng nhưng liền sau đó không khỏi lo sợ bà con biết sẽ đến xin, đến mượn, hoặc bị mất, hoặc bị cháu con tranh giành làm mất hòa khí gia đình. Nếu cố giấu không cho ai biết thì cũng phập phồng sợ người ta biết.

Nhiều người ác mà sung sướng, người tốt lại khổ cực, tại sao luật nhân quả là đúng nhưng lại như thế?

Đúng như vậy, Phật giáo tin tưởng định luật nhân quả là chính xác, cũng như mọi người đều tin, đã ăn thì được no vậy. Người ta hoài nghi tính chính xác của luật nhân quả là vì người ta nhìn theo góc độ một đời người cho nên thấy sự báo ứng thiện ác là không công bằng; có người sống lành lại bị khổ; không những không gặp điều may mắn mà lại còn chết khổ ! Có người ăn hối lộ, làm trái luật pháp, làm chuyện rất tầm bậy, nhưng vẫn sống tự do ngoài vòng pháp luật, được cả phúc, cả thọ !

Kỳ thực, luật nhân quả tác động thông suốt cả 3 đời. Con người, ngoài đời sống hiện tại, đã từng sống những đời sống quá khứ nhiều vô lượng, và sẽ sống những đời sống vị lai nhiều vô lượng. Một đời sống hiện tại, đem so với vô số đời sống quá khứ, và vô số đời sống vị lai, thì thật là bé nhỏ, ngắn ngủi không đáng kể. Định luật nhân quả quán xuyến cả ba đời. Việc thụ báo lần lượt sẽ diễn biến theo thứ tự. Nghiệp lực nhỏ lớn, nhẹ nặng khác nhau, quyết định thứ tự và mức độ thụ báo khác nhau. Đời này, làm thiện làm ác, vị tất phải chịu báo trong đời này. Đời này, chịu khổ được vui, vị tất đã do nghiệp nhân tạo ra trong đời này. Hơn phân nửa chuyện xảy ra trong đời này là quả báo của nghiệp nhân, tạo ra ở đời sống trước. Phần lớn việc làm trong đời này, phải chờ tới đời sau mới có quả báo. Nếu nhìn suốt cả ba đời thì sẽ không còn thắc mắc gì nữa đối với luật nhân quả !

Hơn nữa, luật nhân quả của đạo Phật không giống như túc mệnh luận hay định mệnh luận. Phật giáo tin rằng, chỉ có những nghiệp lực cực nặng mới không thể chuyển biến được, mới làđịnh nghiệp, còn thì người ta có thể dựa vào sự nỗ lực về sau của mình để cải biến nghiệp nhân quá khứ. Thí dụ, đời trước tạo ra nghiệp nhân của sự nghèo khổ. Đời này, đúng là gặp cảnh túng quẫn, thế nhưng sinh ra trong cảnh nghèo khổ không phải là quan trọng. Nếu biết cố gắng thì hoàn cảnh nghèo khổ sẽ được cải thiện. Như vậy là kết hợp nghiệp nhân hiện tạo, với nghiệp nhân tạo ra trong đời quá khứ, cho nên mới có hoàn cảnh ngày nay. Vì vậy, luật nhân quả của đạo Phật không phải là túc mệnh luận, cũng không phải là định mệnh luận, mà là “nỗ lực luận”. Nếu Phật giáo rơi vào túc mệnh luận hay định mệnh luận, thì thuyết chúng sinh thành Phật không thể nào đứng vững được. Nếu mệnh vận đã do đời sống quá khứ sắp xếp an bài cả rồi, thì việc tu thiện ở đời này sẽ là uổng công hay sao ?

Có thể thấy, luật nhân quả của đạo Phật cũng không tách rời lý nhân duyên sinh. Từ nghiệp nhân của đời quá khứ cho đến quả báo hiện tại, ở khâu trung gian còn phải thêm bao nhiêu ngoại duyên nữa, thì nghiệp quả mới thành sự thực được. Những ngoại duyên đó là sự nỗ lực hay là lười biếng. Người đương sống làm thiện hay ác cũng như một chén nước đường vốn có vị ngọt, nhưng nếu lại bỏ thêm chanh hay cà phê vào đấy thì vị ngọt của chén nước sẽ thay đổi.

Nói chung luật nhân quả của nhà Phật quán thông và liên kết cả ba đời hiện tại, quá khứ và vị lai. Đời này, tiếp thu nghiệp nhân của đời quá khứ. Hành vi đời này, sẽ là nghiệp nhân của đời sau, và cũng có thể gia nhập vào nghiệp nhân của đời trước, tạo thành nghiệp quả của đời này.

Định luật nhân quả, nghe ra thì giản đơn, thế nhưng giảng ra thì không giản đơn. Phật giáo là một tôn giáo xem ra thì tựa hồ như giản đơn, nhưng thực tế thì không giản đơn.

(HT. Thích Thánh Nghiêm)

Sự khác nhau giữa “phước báu” và “phước báo”.

_Phước báu là từ ngữ chỉ những hành động, lời nói và ý nghĩ, thiện lành quí báu, tạo phước trong hiện tại, ví như chúng ta làm việc, kiếm tiền sinh sống, có dư dả thì để dành về sau.

_Phước báo là từ ngữ chỉ kết quả, còn gọi là quả báo lành, quả báo phước đức, do những hành động, lời nói, hay ý nghĩ thiện lành, từ nhiều đời trước cũng như đời này, đến với chúng ta qua các dạng: thới hên, may mắn, bình yên, an ổn, đẹp đẽ, vui vẻ, khỏe mạnh, hạnh phúc, giàu sang, sung sướng, nhàn nhã, trường thọ, trong cuộc đời hiện tại, ví như tiền tiết kiệm chúng ta dành dụm được từ trước đến nay, bây giờ đem ra xử dụng khi cần thiết.

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: “Chỉ có phước báo mới có thể giảm thiểu nghiệp báo mà thôi”.

_Con người tạo tội nghiệp từ trước, đến lúc phải đền trả quả báo, nhẹ thì bị chửi mắng, đau yếu, nặng thì gặp tai nạn, thậm chí mất mạng. Tội nghiệp do con người tạo tác, sanh ra tội báo nghiệp báo, được ví như một nắm muối. Nếu phải bị nuốt nắm muối đó, thì con người sẽ đau khổ biết là dường nào. Nhưng nếu có thể bỏ nắm muối đó vào trong một tô nước rồi uống, thì có lẽ sẽ dễ chịu hơn một chút. Nếu có thể bỏ nắm muối đó vào trong một lu nước rồi uống, thì chắc sẽ dễ chịu hơn một chút nữa. Nếu bỏ nắm muối đó vào trong một hồ nước lớn, rồi từ từ uống, thì chuyện sẽ không còn thành vấn đề. Tô nước, lu nước, hồ nước tượng trưng cho “phước báu”, do chính chúng ta tạo được ít hay nhiều, sẽ giúp chúng ta tai qua nạn khỏi, chịu đựng được quả báo, do tội nghiệp đã tạo trước đây. Chuyện lớn sẽ hóa nhỏ, chuyện nhỏ sẽ hóa không, chuyện khó sẽ hóa dễ. Chứ không phải chúng ta tạo tội nghiệp đầy dẫy trong cuộc đời, gây đau khổ cho không biết bao nhiêu người thân kẻ thù, dù cho nhân danh công lý lẽ phải, trả thù báo oán, gì gì đi nữa, rồi đến lúc giựt mình thức tỉnh, bèn đem tất cả tội lỗi đã tạo, giao cho Trời Phật gánh giùm, chịu tội thế cho mình, bằng cách đi chùa cúng kiến, đi nhà thờ xưng tội, “thì mà là” tất cả tội lỗi đó tiêu tan hết đâu? Con người thường có thói quen “quịt nợ”, cho nên mới có ý nghĩ như vậy!

_Luật nhân quả không bao giờ sai chạy, dù cho con người tu hành đắc thánh quả, vẫn phải chịu quả báo do những tội nghiệp đã gây nên, từ nhiều đời nhiều kiếp trước kia. “Chỉ có phước báo mới có thể giảm thiểu nghiệp báo mà thôi”. Chúng ta nên ghi nhớ lời Đức Phật đã dạy. Đọc lịch sử, chúng ta cũng đã nhận thấy, ngay cuộc đời của Đức Phật, cũng như các vị giáo chủ khác, vẫn bị người đời gièm pha, vu khống, mạ lỵ, chửi bới, ám sát, xét xử, giam cầm, giết hại. Nếu là bậc “phước tuệ lưỡng toàn” như Đức Phật, nghĩa là phước báu và trí tuệ đầy đủ, thì mọi chuyện trở ngại trên thế gian này rồi cũng qua, cuộc đời kết thúc một cách êm đềm, bình an, tự tại. Nếu không có đủ phước báo thì, dù là bất cứ ai, cũng sẽ bị xử chết một cách thê thảm!

_Khi Đức Phật còn tại thế, có người ngoại đạo đến hỏi Đức Phật: Ngài có kinh điển nào đem đọc tụng, có thể giúp cho đệ tử của Ngài vãng sanh niết bàn được không? Đức Phật trả lời rõ ràng: KHÔNG! Tại sao vậy? Bởi vì con người hiền thiện, biết tu tâm dưỡng tánh khi còn sinh thời, tâm tư thanh thản, nhẹ nhàng, thì nhứt định kiếp sau sẽ sinh ở cõi lành. Con người hung ác, luôn luôn làm việc lợi mình hại người, bất chấp thủ đoạn, bất kể sự phiền não khổ đau của tất cả mọi người, thì nhứt định kiếp sau sẽ sinh vào tam đồ ác đạo, gồm có: địa ngục, ngạ quỉ và súc sinh. Thí dụ như dầu nhẹ hơn nước thì nổi trên mặt nước, đá nặng hơn nước thì chìm dưới đáy nước, không nghi ngờ gì cả, không thể nào khác hơn được. Đó là chân lý công bằng tuyệt đối vậy.

Hiểu Thế Nào Về Lý Nhân Duyên

Phật giáo quan niệm các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng theo quy luật Thành – Trụ – Hoại – Không (mỗi sự vật đều có quá trình hình thành, phát triển và tồn tại một thời gian, rồi biến chuyển đi đến huỷ hoại và cuối cùng là tan biến, ví như một làn sóng, khi mới nhô lên gọi là “thành”, khi nhô lên cao nhất gọi là “trụ”, khi hạ dần xuống gọi là “hoại”, đến khi tan rã lại trở về “không”) và đều bị chi phối bởi quy luật nhân – duyên, trong đó nhân là năng lực phát sinh, là mầm để tạo nên quả và duyên là sự hỗ trợ, là phương tiện cho nhân phát sinh, nảy nở. Tuỳ vào sự kết hợp giữa nhân và duyên mà tạo thành các sự vật, hiện tượng khác nhau. Có hay không một hiện tượng, sự vật là do sự kết hợp hay tan rã của nhiều nhân, nhiều duyên. Nhân và duyên cũng không phải tự nhiên có mà nó được tạo ra bởi sự vận động của các sự vật, hiện tượng và quá trình hợp – tan của các nhân – duyên có trước để tạo ra nhân – duyên mới, Phật giáo gọi đó là tính “trùng trùng duyên khởi”.
Về con người, Phật giáo cho rằng cũng không nằm ngoài quy luật: Thành – Trụ – Hoại – Không, hay nói cách khác bất cứ ai cũng phải tuân theo quy luật: Sinh – Trụ – Dị – Diệt (đó là chu trình con người được sinh ra, lớn lên, tồn tại, thay đổi theo thời gian và cuối cùng là diệt vong). Khi con người mất đi thì tinh thần cũng theo đó mà tan biến. Phật giáo không công nhận một linh hồn vĩnh cửu, tách rời thân thể để chuyển từ kiếp này sang kiếp khác.
Phật giáo quan niệm con người được sinh ra không phải là sản phẩm của một đấng tối cao nào đó, càng không phải tự nhiên mà có. Sự xuất hiện của một người là do nhiều nhân, nhiều duyên hội hợp và người đó không còn tồn tại khi nhân duyên tan rã. Nhân – duyên ở đây được Phật giáo khái quát thành một chuỗi 12 nhân duyên (thập nhị nhân duyên), là sợi dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi: 1) Vô minh; 2) Hành; 3)Thức; 4) Danh sắc; 5) Lục nhập; 6) Xúc; 7) Thụ; 8) Ái; 9) Thủ; 10) Hữu; 11) Sinh; 12) Lão tử. Trong đó, Vô minh là duyên của “Hành”, Hành là duyên của “Thức”, Thức là duyên của “Danh sắc”, Danh sắc là duyên của “Lục nhập”, Lục nhập là duyên của “Xúc”, Xúc là duyên của “Thụ”, Thụ là duyên của “Ái”, Ái là duyên của “Thủ”, Thủ là duyên của “Hữu”, Hữu là duyên của “Sinh”, Sinh là duyên của “Lão tử”. Phật giáo cho rằng 12 nhân duyên có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, cái này là quả của cái trước nhưng lại là nhân, là duyên cho cái sau. Trong chuỗi nhân duyên, Phật giáo chú trọng nhấn mạnh tới yếu tố “vô minh”, hiểu theo nghĩa đen là một màn đêm u tối, không có ánh sáng dẫn đường, không biết lối mà đi; hiểu theo nghĩa bóng đó là sự thiếu hiểu biết của con người về thế giới khách quan, về bản chất chân thực của sự vật hiện tượng dẫn tới nhìn nhận thiên kiến, thiển cận, phiến diện, chấp ngã, đề cao cái “Ta”, từ đó dẫn dắt đến hành động sai trái, tạo nên nghiệp xấu, gây nên “nhân” xấu, sinh ra “quả” xấu, làm cho con người phải chịu đau khổ, mãi quẩn quanh trong vòng sinh tử luân hồi. Do đó, để có thể thụ hưởng yên vui, an lạc trong cuộc đời con người phải học tập, lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy tuệ thị nghiệp) để xoá bỏ “vô minh”, tạo ra những nhân, duyên tốt để gieo trồng nên quả ngọt.
Phật giáo quan niệm mọi sự vật luôn luôn biến chuyển, đổi thay, mọi thứ ta có, ta nhìn thấy đều chỉ là vô thường. Vô thường là không thường xuyên, mãi mãi ở trong một trạng thái nhất định mà nó sẽ luôn biến đổi, tồn tại hay không tồn tại, có hay không có đó chỉ là vấn đề thời gian. Khi đầy đủ nhân duyên hội hợp thì sự vật hiện hữu, gọi là “có”; khi nhân duyên tan rã thì sự vật biến diệt, lại trở về là “không”. Muôn vật từ nhân duyên mà sinh và cũng do nhân duyên mà diệt. Lý nhân duyên làm cho ta thấy con người là một đấng tạo hoá tự tạo ra đời sống của mình, con người làm chủ đời mình, làm chủ vận mệnh của mình. Cuộc đời con người vui sướng hay phiền não đều do nhân và duyên mà con người tự tạo ra chi phối. Từ cách nhìn nhận đó, Đức Phật khuyên con người sống hướng thiện, thực hiện tâm từ bi, biết yêu thương và chia sẻ, vì hạnh phúc của mọi người và hạnh phúc của mình, sống tự tại an lạc, không cố chấp bám víu vào sự vật, hiện tượng, không bị ảnh hưởng, chi phối bởi sự vô thường của cuộc sống.
___()___

Một Sự Ngộ Nhận Về Luật Nhân Quả.


Hỏi: Kính thưa thầy, con không phải là người tu theo đạo Phật, nhưng lâu nay con nghe nói nhiều về luật nhân quả của đạo Phật và duyên nghiệp nhiều đời trồng chéo lên nhau. con thấy có nhiều người nói về nhân quả, nhưng thường thì họ chỉ nói chứ ít khi nào áp dụng vào đời sống của mình. Con có một cá tánh là khi biết người khác đối xử xấu với mình, con thường im lặng và tìm cách tránh chớ không nói. Như vậy, đối với luật nhân quả con có phạm hay không? Kính mong thầy giải thích.

Ðáp: Trong câu hỏi của bạn, nếu phân tích thì tôi thấy có ba vấn đề chi tiết cần được trao đổi chia sẻ:

Thứ nhứt, theo bạn nói: “bạn thấy có nhiều người nói về nhân quả, nhưng thường thì họ chỉ nói chứ ít khi nào áp dụng vào đời sống của mình”. Ðiều nầy, tôi hoàn toàn đồng ý với bạn. Nhưng thưa bạn, trên đời nầy ít có mấy ai thật hành đúng theo hết những gì mà mình đã nói. Giữa lý thuyết và thật hành, thật khó mà song hành hợp nhứt với nhau. Nói thì rất dễ nhưng làm thì rất khó. Vì thế, nên sách Nho có câu: “Thuyết dị, hành nan” hay “năng thuyết bất năng hành”. Lý thuyết bao giờ cũng đi xa hơn hành động. Nếu nói và làm đi đôi với nhau, thì cõi đời nầy chắc không còn ai chịu nhiều đau khổ nữa. Do đó, nên ta thấy các bậc Cổ Ðức, thường các ngài ít nói, và chỉ nói những gì trong phạm vi khả năng mà các ngài có thể thật hành được thôi. Bởi vậy, nên các ngài rất cẩn trọng ở nơi lời nói.

Trong đạo Phật có câu nói: “Tri hành hợp nhứt”. Câu nói nầy nhằm để cảnh tỉnh khuyến tấn, nhưng trên thực tế thì ít có mấy ai làm đúng. Chính vì không hợp nhứt, nên đôi khi trở thành là kẻ nói khoát. Hiểu biết tuy cũng rất cần thiết, nhưng nó chỉ đem lại lợi ích cho phần sở tri kiến giải của mình thôi. Cũng như người có đôi mắt thật sáng, nhìn xa thấy rộng, họ có thể nói đông nói tây đủ thứ chuyện trên đời, nhưng nhìn lại, thì họ vẫn còn dặm chân tại chỗ. Dù rằng họ có đôi chân rất mạnh.

Như thế, thì thử hỏi làm sao đến nơi mà họ nhắm tới. Khác nào như người ngồi đó chỉ biết diễn tả phân tích đủ thứ món ăn tuyệt diệu trên đời, nhưng rốt lại thì bụng họ vẫn đói meo. Họ nói thì rất hay, nhưng bản thân họ chưa từng bước chân xuống bếp. Người xưa có câu: “Muốn ăn phải lăn vào bếp, muốn chết phải lết vô hòm”. Ðây là câu nói nhằm cảnh tỉnh thức nhắc người ta nên làm hơn là nên nói. Hãy biến nhận thức của mình thành hành động cụ thể. Có thế, thì mới có lợi ích thiết thực.

Tuy nhiên, sự nhận định hiểu biết đúng hướng chân lý (chánh kiến ) tuy chưa thật hành đúng theo, nhưng điều đó cũng rất là tốt và cần thiết. Chỉ sợ nhận định sai lầm ( tà kiến ) rồi chấp chặt bảo thủ làm theo, đó mới là điều tai hại đáng nói. Cho nên, điều quan yếu trước tiên là phải nhận định đúng với chân lý, còn việc thật hành thì có thể thực hiện từng bước cũng không sao. Cũng như người đứng dưới chân núi, thấy rất rõ hình dạng của ngọn núi, nhưng muốn tới ngọn núi, thì đòi hỏi họ phải gắng sức trèo lên từ từ từng bước vững chắc. Tuy chưa tới ngọn núi liền, nhưng cái hướng thấy của họ không bị sai lệch.

Trong nhà Phật có câu nói: “Ðốn ngộ, nhưng phải tiệm tu”. Có thể cái chỗ thấy biết tương đồng với Phật Tổ, nhưng phải từ từ tu tiến, vì tập khí nghiệp chướng của con người còn quá sâu nặng. Như vậy, có những người tuy họ nói nhiều về nhân quả, nhưng sự thật hành của họ quả không đúng theo những gì họ nói. Người như thế, tuy họ không được lợi ích nhiều, nhưng ít ra họ cũng không đến nổi phải gây ra những lỗi lầm sâu nặng. Vì họ đã có ý thức đến lý nhân quả vay trả phần nào.

Như bạn nói, họ ít khi áp dụng chớ không phải hoàn toàn là họ không có áp dụng. Nghĩa là họ có áp dụng từ từ, đó gọi là họ đang hướng đời mình trên bước đường tu tập. Như thế, kể ra họ cũng vẫn còn tốt hơn là những người mà cả đời chưa bao giờ học hỏi biết đến nhân quả và họ cũng không bao giờ áp dụng một chút nào theo lý nhân quả trong cuộc sống. Do đó, nên suốt đời họ gặp phải nhiều tai nạn khổ đau. Có tránh nhân xấu thì mới không gặp quả xấu. Ở đời, nếu mình đòi hỏi phải thật hành một cách toàn vẹn, điều đó, thật khó có ai làm được, ngoại trừ các bậc Thánh nhân.

Thứ hai, bạn nói: “là bạn có cá tánh khi biết người khác đối xử xấu với mình thì bạn thường im lặng và tìm cách tránh chớ không nói”. Ðiều nầy là bạn hiện tập cho mình có một thói quen tương đối khá tốt. Nghĩa là bạn khéo áp dụng câu châm ngôn của người xưa: “Im lặng là vàng nói là bạc”. Ðiều đáng nói hơn nữa, là bạn khéo biết tránh duyên. Bạn tìm cách tránh né chớ không muốn đương đầu để tranh cãi hơn thua. Ðứng về mặt xử thế tự lợi, điều nầy bạn xử sự rất tốt cho bạn. Vì bạn không muốn gây ra những chuyện phiền phức rắc rối cho mình và người.

Ðấy là bạn đang thực tập hạnh nhẫn nhục rồi đó. Nhưng nếu bạn tập tánh khá hơn nữa là tuy tìm cách tránh né, nhưng bạn không bao giờ quan tâm cất chứa những lời nói của họ ở trong lòng. Ðó là bạn đang thực tập hạnh hỷ xả. Hạnh nầy thật rất khó làm. Nhưng nếu bạn cố gắng thực tập, thì chắc chắn có ngày bạn sẽ thành công. Chẳng những bạn không buồn giận họ, mà bạn còn thương xót tật tánh của họ. Vì họ chưa biết thực tập tánh tốt không nói xấu ai. Người thích nói xấu chỉ trích lỗi lầm kẻ khác là vì người đó tâm của họ còn quá thô tháo vọng động, còn thích nhiều chuyện thị phi. Họ là hạng người thích làm cảnh sát quốc tế. Do đó, nên bạn cần thương họ nhiều hơn. Vì biết họ vẫn còn ôm ấp quá nhiều đau khổ nội kết trong lòng. Bởi thế, họ là người thật đáng thương hơn đáng trách!

Thứ ba, bạn nêu ra câu hỏi: “Như vậy đối với luật nhân quả bạn có phạm hay không?” Ðiều nầy, có lẽ bạn đã hiểu lầm về luật nhân quả rồi. Thưa bạn, luật nhân quả khác hơn những điều luật cấm giới. Luật nhân quả không mang tính giới điều như là giới luật mà người ta đã lãnh thọ. Dù bạn tu theo bất cứ tôn giáo nào, mỗi tôn giáo đều có những giới luật răn cấm cả. Nhân quả, sở dĩ người ta gọi là luật, bởi vì nó là luật tắc thiên nhiên có tác dụng vận hành chi phối toàn thể vũ trụ. Vì thế nên nói nhân quả là một chân lý phổ biến. Chân lý nầy nó tiềm tàng bao trùm trong mọi sự vật, không có một vật thể nào thoát ngoài định luật nầy. Từ thực vật, động vật, khoáng vật v.v… không một loài nào thoát khỏi.

Nói cách khác là từ vật lý, sinh lý, cho đến tâm lý… không có một thứ gì mà không có nhân quả. Lý nhân quả được đặt định trên chiều thời gian. Vì từ nhân tới quả phải có thời gian. Ngoài chánh nhân ra, nó còn nhiều trợ duyên khác nữa. Cho nên nhân quả là một hiện tượng rất phức tạp xuyên suốt qua ba thời kỳ: quá khứ, hiện tại và vị lai, chớ không phải đơn giản như nhiều người lầm tưởng. Bạn thử tìm mọi hiện tượng trên đời nầy có cái gì không phải là nhân quả. Ăn là nhân, no là quả. Học là nhân, biết chữ là quả v.v…

Nói tóm lại, người hiểu lý nhân quả và khéo biết ứng dụng vào trong đời sống, thì họ sẽ có được lợi lạc rất lớn. Như vậy luật nhân quả là quy luật vận hành tự nhiên của vạn hữu vũ trụ. Không ai đặt định bày ra luật nhân quả nầy. Ðức Phật cũng chỉ là người giác ngộ khám phá ra luật nhân quả mà thôi. Mong bạn cố gắng khéo ứng xử hành hoạt đúng theo luật nhân quả, tức theo chiều hướng thánh thiện, thì đời bạn sẽ gặt hái nhiều điều lợi lạc trong đời sống vậy.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Đức Phật khai thị Phạm Chí

Thuở xưa, có một vị Bà La Môn xuất gia học đạo từ nhỏ, đến năm sáu mươi tuổi vẫn chưa đắc đạo. Theo pháp Bà La Môn, đến tuổi này chưa đắc đạo thì trở về lấy vợ làm ăn. Ông này cũng như vậy, trở về lập gia đình, sinh được một trai khổi ngô dễ mến. Lớn lên cậu ta tỏ ra thông minh hơn người, học hành giỏi giang, biện luận lưu loát. Đến năm bảy tuổi, vào một đêm cậu ta bỗng lâm bệnh nặng, đột ngột qua đời. Ông Phạm Chí đau buồn khôn xiết, cứ phủ phục ôm xác con than khóc đến ngất đi tỉnh lại. Thân tộc tấy thế tìm lời khuyên ngăn, giành lấy xác đứa bé tẩn liệm rồi đem chôn ngoài thành.

Ông Phạm Chí tự nghĩ: “Ta nay kêu khóc nào có ích gì? Chi bằng hãy đến chỗ Diêm La đòi mạng con mình lại”.

Nghĩ xong, ông tắm gọi trai giới, chuẩn bị hành lý mang hương hoa rời nhà ra đi. Đến đâu ông cũng hỏi chỗ ở của vua Diêm La, như thế cứ đi mãi suốt mấy ngàn dặm. Một hôm, ông đến một vùng núi sâu, gặp được các vị Phạm Chí đắc đạo hỏi thăm.

Các Phạm Chí hỏi: “Ông hỏi thăm chỗ vua Diêm La là muốn cầu điều gì?”.

Đáp: “Tôi có một người con trai thông minh, biện bác hơn người. Thế mà gần đây nó bỗng chết mất. Tôi đau thương buồn khổ, không sao quên được, nên muốn tìm đến chỗ vua Diêm La xin lại mạng sống con mình để nhờ cậy lúc tuổi già”.

Các Phạm Chí thương ông lão ngu si, liền bảo: “Chỗ vua Diêm La người sống đâu thể đến được. Chúng tôi sẽ chỉ cách cho ông. Từ đây đi về hướng Tây hơn bốn trăm dặm có một con sông lớn. Trong đó có tòa thành là nơi dừng nghỉ của các thiên thần khi đi tuần sát thế gian. Vua Diêm La vào ngày mùng tám hàng tháng đi tuần sát sẽ ghé lại thành này. Ông trì trai giới đến đó vào ngày ấy sẽ gặp”.

Ông Phạm Chí vui mừng, vâng theo lời dạy ra đi. Đến con sông lớn, ông thấy chính giữa có một tòa thành tráng lệ, cung điện nhà cửa trang nghiêm như cõi trời Đao Lợi. Ông đến trước cổng đốt hương, cầu nguyện được ra mắt vua Diêm La và tha thiết trông chờ. Vua Diêm La cho người đưa ông lão vào rồi hỏi ông có điều gì thỉnh cầu. Phạm Chí thưa: “Tôi đã già mới sinh được một đứa con trai, mong rằng sau này sẽ nhờ cậy. Nuôi dưỡng được bảy tuổi, không ngờ một hôm nó bỗng lâm bệnh chết mất. Xin đại vương ban ân trả lại mạng sống con tôi”.

Vua Diêm La nói: “Tốt lắm, con ông hiện đang chơi ở khu vườn phía đông. Ông hãy đến dẫn nó về”.

Ông Phạm Chí liền đến nơi đó, trông thấy con mình đang chơi đùa cùng các đứa bé khác. Ông chạy lại ôm con khóc lóc nói: “Cha ngày đêm thương nhớ con, ăn ngủ không yên. Con có nhớ nghĩ đến cha mẹ đang đau khổ không?”.

Đứa trẻ giật mình la lớn, trở lại quở ông: “Ông già si mê này không hiểu đạo lý. Tôi chỉ ở nhờ nhà ông chẳng bao lâu đã gọi là con! Đừng nói nhiều lời càn rỡ nữa, hãy sớm đi là hơn. Tôi ở chỗ này cũng có cha mẹ. Chúng ta chỉ tình cờ gặp gỡ, quyến luyến ôm ấp làm chi”.

Ông Phạm Chí nghe vậy, buồn bã khóc lóc bỏ đi. Ông vừa đi vừa suy nghĩ: “Ta nghe Sa Môn Cù Đàm biết được đạo lý dời đổi của thần thức, vậy thử đến hỏi xem”. Nghĩ xong, ông liền tìm đến chỗ Phật. Bấy giờ, đức Thế Tôn đang trú tại tịnh xá Kỳ Hoàn nước Xá Vệ vì đại chúng thuyết pháp. Ông Phạm Chí đến gặp Phật liền cúi đầu đảnh lễ, trình bày đầu đuôi câu chuyện. Ông nói: “Con tôi thật không chịu nhìn nhận tôi, trở lại bảo tôi là ông già si mê, ở tạm không bao lâu lại nhận làm con. Không một chút tình phụ tử như vậy, không biết là do duyên gì?”.

Đức Phật bảo: “Ông quả thật ngu si! Khi người ta chết thần thức đi khỏi lại thọ thân mới. Cha mẹ vợ con chỉ là nhân duyên gặp gỡ, như khách trọ đến rồi lại đi. Thế mà chúng sinh lại ngu mê, chấp cho là thật. Sỡ dĩ có ưu bi khổ não là do không hiểu được cội gốc này, chìm đắm mãi trong sinh tử không ngày ra khỏi. Chí có bậc trí tuệ không tham ân ái, giác ngộ khổ đế, dứt bỏ tập đế, siêng tu kinh giới (đạo đế), diệt trừ vọng tưởng chấm dứt sinh tử (diệt đế)”.

Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói kệ:

Người đời lo vợ con
Chẳng xét lẽ mất còn
Cái chết bỗng chợt đến
Như nước lũ cạnh bên.
***
Cha con cứu không nổi
Ai khác giúp được nào
Mạng hết cậy người thân
Như mù canh giữ bạc.
***
Tuệ tri được ý này
Nên tu trì kinh giới
Siêng tu vượt thế gian
Dứt trừ tất cả khổ.
***
Xa lìa các sa đọa
Như gió thổi mây tan
Vọng tưởng đã lặng yên
Tri kiến liền hiện tiền.
***
Trí tuệ quí nhất đời
Vui nơi đạo vô vi
Nếu chánh pháp thọ trì
Sinh tử chẳng còn chi.

Ông Phạm Chí nghe kệ xong, hoát nhiên khai ngộ, biết rõ mạng sống vô thường, vợ con như khách, bèn phủ phục đảnh lễ xin làm Sa Môn.

Đức Phật bảo: “Lành thay!”. Râu tóc ông liền tự rụng, pháp y đầy đủ, thành tướng Sa Môn. Ông tư duy ý nghĩa bài kệ, chấm dứt ân ái, không còn vọng tưởng, liền chứng quả A La Hán ngay tại chỗ.

Bất Hiếu

Đức Phật nói trong nhà luôn có hai vị Phật đó là cha và mẹ. Vì vậy, bất hiếu với cha(mẹ) là bất kính với Chư Phật. Nói dối cha-mẹ là nói dối chư Phật. Chửi mắng cha-mẹ là chửi mắng Chư Phật. Đức Phật nói trong 5 tội ngũ nghịch thì tội hai tội nặng nhất là giết cha và giết mẹ. Hai tội này dù phước báu có lớn cỡ nào, công đức có nhiều đến nào thì không thể thoát được tội, phải chịu khổ dưới địa ngục trong vô lượng kiếp về sau, không thể tái sinh làm người. Thế nhưng những việc ta làm hằng ngày đang giết cha mẹ của ta đấy đang giết một cách âm thầm, từ từ. Ta không chăm chỉ học tập, chỉ biết vui chơi, không ngoan ngoãn…những điều đó khiến cha mẹ ta đau lòng, khổ nào rồi dần dần cha mẹ ta bị giảm tuổi thọ. Đó không phải giết cha giết mẹ thì còn là gì nữa !!!. Chính vì vậy, mỗi chúng ta hãy nên yêu thương cha mẹ, kính trọng cha mẹ dù cha mẹ ta có ở tầng lớp thấp kém nào trong xã hội đi chăng nữa. Bây giờ, ngay lập tức hãy nói với cha mẹ bạn rằng:” Bố, mẹ à…con yêu bố mẹ nhiều lắm” trước khi quá muộn!!!
” Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha
Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha”